tag:blogger.com,1999:blog-19737959542369671542024-03-06T05:50:54.873+07:00TRAN XUAN AN - VE PHAN BOI CHAU (1867-1940) ... & HOI THAO KHOA HOC VE NGUYEN VAN TUONG (1824-1886)TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comBlogger10125tag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-73076365379535666812007-04-08T07:57:00.001+07:002007-04-08T07:57:58.096+07:00TRAN XUAN AN -- PHAN BOI CHAU TRONG QUAN HE VOI THIEN CHUA GIAO<span style="font-family:verdana;"><strong>PHAN BỘI CHÂU<br />TRONG QUAN HỆ VỚI THIÊN CHÚA GIÁO<br /><br />Trần Xuân An</strong><br /><br /><em>(sơ thảo)</em><br /><br /><br />Trong những tháng sau Ngày Thống nhất đất nước, tên Phan Bội Châu trên con đường vốn là đường phố lớn thứ hai ở Huế, hầu như cùng một lúc với tấm biển khắc tên vua ngụy Đồng Khánh trên cổng một trường nữ trung học rất nổi tiếng, đã bị xoá đi, đục bỏ. Đồng thời, cũng như vậy, ở một số tên đường khác, nhưng khác với hai trường hợp trên, lại chỉ là sự nhầm lẫn, chẳng hạn như con đường nhà tôi, bỗng dưng cái tên của vị Bình Tây sát tả tướng quân Nguyễn Hiệu, vì thiếu một chữ <em>“Duy”</em>, nên cũng bị hạ biển. Có lẽ ai đó có thẩm quyền đổi tên đường không biết rằng, Nguyễn Duy Hiệu còn có tên gọi là Nguyễn Hiệu, như Trương Công Định còn được gọi là Trương Định, Nguyễn Phiên còn có thêm chữ <em>“Thượng”</em> lót giữa…<br /><br />Đồng Khánh, tất nhiên còn đáng phải chịu tủi nhục hơn. Nhưng không khỏi xót xa cho Nguyễn [Duy] Hiệu, và có một chút ngậm ngùi cho Phan Bội Châu.<br /><br />Pho tượng Phan Bội Châu ở Huế, do một nhóm trí thức tự nguyện, tự tay tô khắc, cũng chỉ im lìm một góc vườn nhà, không được dựng lên ở một vị trí thường thấy đối với một danh nhân thực sự, không tì vết hay tì vết không đáng kể. Đây không phải là sự nhầm lẫn như trường hợp Nguyễn Duy Hiệu, mà thể hiện một sự nhận định, đánh giá về ông.<br /><br />Trong một bài viết về Phan Bội Châu hồi năm ngoái <span style="color:#ff0000;">(1)</span>, tôi có dịp kể lại đôi nét về tình trạng nhận định Phan Bội Châu những năm tại Miền Bắc trước 1975. Cho dù qua đi thời “quá tả”, đấu tố cả Phan Bội Châu, trong nhận định chính thống, Phan Bội Châu vẫn không phải là một nhân vật lịch sử toàn bích. Nói thẳng ra, Phan Bội Châu mắc phải nhiều sai lầm về tư tưởng chính trị thật sự không hiểu nổi.<br /><br />Trước phiên toà đề hình Bắc Kỳ, 1925, Phan Bội Châu không chứng tỏ ông là một anh hùng khí tiết. Điều đó thật đáng tiếc cho ông. Nhưng đáng trách hơn vẫn là một Phan Bội Châu trong mối quan hệ với Thiên Chúa giáo -- một lực lượng gắn bó, sát cánh với thực dân Pháp trong quá trình xâm lược và thống trị, nô dịch dân tộc ta (chưa kể giai đoạn câu kết với Mỹ để đạt đến đỉnh cao quyền lực thời Ngô Đình Diệm và giữ được phần lớn thế lực trong thời Nguyễn Văn Thiệu về sau).<br /><br />Thật không hiểu nổi một Phan Bội Châu khi đọc những dòng điếu văn ông viết vào năm 1936, <em>“Khóc đức cha Lý”</em> (giám mục Allys), đăng trên báo <em>“Tiếng Dân”</em> ngày 25-5 năm ấy:<br /><br /><em>“… Nửa thế kỉ choảng vang chuông đạo Chúa, mở miệng người câm, xoi tai người điếc, những ước ao beo cọp hoá tường lân<br />Muôn giáo đồ tắm gội máu tim trời, suốt nam tới bắc, từ gần tới xa, mong mai mốt non sông thành lạc quốc”…</em> <span style="color:#ff0000;">(2)</span><br /><br />Không hiểu sao Phan Bội Châu lại viết như thế, trong khi ông nhận thức rất rõ bản chất tôn giáo này, trong quá trình Thiên Chúa giáo gắn bó với thực dân. Và ở một đoạn khác, tiếp theo, trong bài văn tế ấy, phải chăng Phan Bội Châu đã tự thú:<br /><br /><em>“… Tôi nhân vì nhiều bạn thảy con thương của Ngài, trước vài mươi năm từng nhiều phen ở Huế</em><br />[… kiểm duyệt một câu ? – TXA chua thêm…]<br /><em>Chẳng trực tiếp, nhưng mà gián tiếp, gió xuân đòi trận, hơi hoà bình từng ngấm vào tim;<br />Ư</em> [ở - TXA. ct.] <em>ngày nay nhắc tới ngày xưa, tiếng ngọc vài lời, mùi thân ái còn say tới não”…</em> <span style="color:#ff0000;">(2)</span><br /><br />Như vậy, thêm một lần nữa, chúng ta biết, Phan Bội Châu đã thật sự có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa giáo từ những năm còn trẻ, chưa xuất dương sang Nhật.<br />Mối quan hệ đó, ở <em>“Tự phán”</em> <span style="color:#ff0000;">(3)</span> (tên khác: <em>“Phan Bội Châu niên biểu”</em> <span style="color:#ff0000;">(3)</span>), thể hiện qua ý thức chọn lựa Kỳ ngoại hầu Cường Để, hậu duệ hoàng tử Cảnh (người vốn đã được “rửa tội”, vào đạo Chúa, trong thời gian theo Pégneau de Béhaine sang Pháp), để tôn phù như một chiêu bài <em>(“Sở Hoài vương, Lê Trang Tôn chẳng qua là một thủ đoạn khi anh hùng khởi sự mà thôi” </em><span style="color:#ff0000;">(4)</span><em>)</em>, lại còn được chính ông tự tay viết:<br /><br /><em>“Tôi từ biệt Tiểu La chạy hết các địa phương thầm kết giáo đồ từ Quảng Bình dĩ Bắc. Cụ Thông ở Mộ Vịnh, cụ Truyển ở Mỹ Dụ, cụ Thông ở Quỳnh Lưu, cụ Ngọc ở Ba Đồn, thảy sơ thông được tình tố hết; cái đám mây mù nghi ngờ nhau vì lương giáo, quét một trận mà sạch bong, cũng là một việc thích lắm. Việc này Ngô Quảng thật là một người phụng hành rất có công, bởi vì Ngô Quảng sau khi thất cước, đã từng đổi họ tên vào sổ dân giáo, nay anh cắp tôi đi, đường thuộc lối quen, đến đâu là như ý cả. Cho nên về sau tôi xuất dương, công ơn các người giáo dân phù nghĩa rất nhiều. Hiện bây giờ (lúc viết sách này), còn có cụ Lĩnh (đã chết ở Côn Lôn), hai cụ còn an trí ở Nam Kỳ, còn các thầy tuyên giáo hãy còn có người còn ở Nhật Bản, Xiêm La, Tàu, chớ không phải việc ngẫu nhiên vậy”</em> <span style="color:#ff0000;">(5)</span>.<br /><br />Việc liên kết với linh mục, thầy giảng và giáo dân đạo Chúa ở còn diễn ra trong một thời gian ngắn sau:<br /><br /><em>“Tháng 10 đến Quảng Bình, ước với các người trong giáo hữu, như cụ Thông, cụ Truyền, đều nhóm nhau ở giáo đường nhỏ tại Ba Đồn. Những người nhóm ở đâu thảy là đảng sót của ông Hiền, ông Hậu, căm giận người Pháp đã lâu ngày”</em> <span style="color:#ff0000;">(6)</span>.<br /><br />Một giáo dân khác còn được Phan Bội Châu ghi tên là Trần Văn Bỉnh (người Hà Tĩnh), có nghiên cứu sách Tây, chế được súng đạn:<br /><br /><em>“Ông là người hào kiệt trong giáo đồ…”.<br />“Khi đầu tôi mưu bạo động, trước kết giao với ông…”</em> <span style="color:#ff0000;">(7)</span><br /><br />Mối quan hệ đó, như trong một cuốn sách vừa xuất bản <span style="color:#ff0000;">(8)</span>, tôi khẳng định, không phải là mối quan hệ giữa Phan Bội Châu cũng như của phong trào Đông du với giáo hội Thiên Chúa giáo tại Việt Nam, mà chỉ với một số linh mục, giáo dân đã đủ nghị lực thoát khỏi sự cương toả của giáo hội. Trong đó, Mai Lão Bạng là vị chuẩn linh mục tiêu biểu, bị giáo hội đe doạ rút phép thông công <span style="color:#ff0000;">(9)</span>. Khi khẳng định như thế, tôi vẫn thể hiểu nổi vì sao ngay trong bản <em>“Tự phán”</em> cũng như trong bản <em>“Phan Bội Châu niên biểu”</em> đều ghi:<br /><br /><em>“Năm Mậu thân, tháng 2, (1908), tôi soạn sửa đi Tiêm La, trở về Hương Cảng, đụng gặp cụ Mai Lão Bạng từ trong nước ra. Đồng đi lần đó có học sinh thanh niên vài mươi người. Cụ Mai là đại biểu cho người trong Thiên Chúa giáo đồ. Giáo hội uỷ thác cụ ra để giới thiệu những người giáo đồ nhập Hội Duy Tân”.</em><br />[…]<br /><em>“Tôi vì cớ tôn trọng giáo hội, mới nhóm toàn viện học sinh hoan nghênh cụ”…</em> <span style="color:#ff0000;">(10)</span><br /><br />Đó là một lầm lẫn về bản chất của giáo hội Thiên Chúa giáo chăng, vì sự thật lịch sử không đúng như Phan Bội Châu viết về giáo hội, mà sự thực như tôi đã khẳng định, qua quá trình nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu khác nhau.<br /><br />Nếu quả thật không có sự sửa chữa của người khác về sau, mà chính Phan Bội Châu đã viết như vậy, thì chỉ có thể lí giải: Phan Bội Châu không đủ dũng cảm do đã quá suy nhược thể chất (già nua, bệnh hoạn), nên đã biện minh cho giáo hội Thiên Chúa giáo với thủ thuật lấy bộ phận (một số linh mục, giáo dân chống Pháp) khái quát ra toàn thể (cả giáo hội đều chống Pháp)!<br /><br />Không những chỉ ở các tác phẩm thuộc loại tự thuật, hồi ức vừa được trích dẫn, Phan Bội Châu còn thể hiện mối quan hệ ấy ra trong vài bài thơ khác:<br /><br /><em>“<strong>Tặng báo “Vì Chúa”</strong><br /><br />Lòng ta vì chúa, chúa vì ta<br />Rước thánh thần về đuổi quỷ ma<br />Đường lối quang vinh lên tột bậc<br />Ai rằng Thiên quốc ở đâu xa?”</em> <span style="color:#ff0000;">(11)</span><br /><br />(1932)<br /><br /><em>“<strong>Đầu năm Canh thìn,<br />Mừng báo Vì Chúa</strong><br /><br />Đông xưa sương tuyết gió mưa dồn<br />Ơn chúa đem xuân tặng chúng con<br />Thế thiệt càn khôn thương lũ bé<br />Bao giờ cây cỏ giả ơn non<br />Mười răn thánh dạy rằng in dạ<br />Ba kiếp trần qua vẫn giữ hồn<br />Ao ước tuyền Nam rành họ Chúa<br />Hoa tươi tươi mãi, nguyệt tròn tròn”</em> <span style="color:#ff0000;">(12)</span><br /><br />(báo <em>“Vì Chúa”</em>, số 152, ngày 18-2-1940)<br /><br />Phan Bội Châu ao ước toàn (tuyền) cõi nước Nam đều rền (rành) rặt mang họ theo tên Chúa (tên thánh) khi rửa tội hay thêm sức! Một khi Việt Nam đã là một nước Thiên Chúa giáo toàn quốc, thì đất nước muôn đời tươi sáng, như hoa tươi mãi tươi thắm, như trăng tròn mãi tròn sáng, không thể mờ khuyết!<br /><br />Đấy là thơ của nhà yêu nước Phan Bội Châu đó sao?! Thật không thể hiểu nổi!<br /><br />Đó là chưa kể đến những bài thơ Phan Bội Châu ca ngợi những tên tay sai khét tiếng như Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm <span style="color:#ff0000;">(13)</span>!<br /><br />Chúng ta có thể lí giải như thế nào về sự tồn tại những bài thơ như thế và những câu văn tế ở đoạn trên trong toàn bộ tác phẩm của Phan Bội Châu? Những bài ấy đều có xuất xứ rõ ràng: trích nguyên văn từ các tờ báo đã ấn hành từ những ngày Phan Bội Châu còn sống, nhất là đăng tải ở báo <em>“Tiếng Dân”</em> của chính nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng!<br /><br />Phải chăng Phan Bội Châu đã đi từ chỗ chỉ liên kết với một số linh mục, thầy giảng, giáo dân trong giai đoạn chống Pháp trước 1925, ông trượt dài đến chỗ thoả hiệp với cả những giám mục thực dân Pháp và ca ngợi những kẻ này cùng cả giáo hội thuộc địa vốn đã bị nô dịch hoá đến mức mụ mẫm?<br /><br />Phải chăng có một trò đánh lận nào đó trong toàn bộ tác phẩm Phan Bội Châu?<br /><br /><strong>Trần Xuân An</strong><br /><em>khởi viết lúc 8 giờ 48 phút,<br />ngày 07-4 HB7 [2007] (20-2 Đinh hợi HB7);<br />viết tạm xong lúc 11 giờ 29 phút,<br />cùng ngày, tại TP.HCM.</em><br /><br /><br />______________<br /><br />(1) Trần Xuân An, <em>“Chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề của Phan Bội Châu”</em>:<br /><a href="http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_txa-Pbchau.htm">http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_txa-Pbchau.htm</a><br /><br />Trần Xuân An, <em>“Về tấm ảnh Phan Bội Châu & Cường Để chụp chung”</em>:<br /><a href="http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_ykien-1-txa.htm">http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_ykien-1-txa.htm</a><br /><br />Hoặc LINKs theo địa chỉ mới của Giao Điểm bộ mới<br />( http://www.giaodiem.us ):<br /><br /><a href="http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-1.htm">http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-1.htm</a><br /><br /><a href="http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-2.htm">http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-2.htm</a><br /><br />Links trên web Tác phẩm Trần Xuân An:<br /><br /><a href="http://tranxuanan-writer-1.blogspot.com/">http://tranxuanan-writer-1.blogspot.com/</a><br /><br />(2) <em>“Phan Bội Châu toàn tập”</em> (PBC.TT.), Chương Thâu sưu tầm, biên soạn, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tập 6, tr. 341 – 342.<br /><br />(3) Phan Bội Châu, <em>“Tự phán”</em>, Nxb. Văn hoá - Thông tin, tái bản, 2000; <em>“Phan Bội Châu niên biểu”</em> (PBC.NB.), trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 39 – 294.<br /><br />(4) PBC.NB., sđd., tr. 65.<br /><br />(5) PBC.NB., sđd., tr. 72 - 73.<br /><br />(6) PBC.NB., sđd., tr. 79.<br /><br />(7) PBC.NB., sđd., tr. 81.<br /><br />(8) Trần Xuân An, <em>“Nguyễn Văn Tường, một người trung nghĩa”</em>, Nxb. Thanh Niên, 2006, tr. 292 – 296. Xem trên web Tác phẩm TXA.:<br /><br /><a href="http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com/">http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com/</a><br /><a href="http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_nsach.htm">http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_nsach.htm</a><br /><br />(9) Trần Tam Tỉnh (linh mục, viện sĩ), <em>“Thập giá và lưỡi gươm”</em>, nguyên tác tiếng Pháp, bản dịch của lm. Vương Đình Bích, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 189.<br /><br />(10) PBC.NB., sđd., tr. 175.<br /><br />(11) PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 213.<br /><br />(12) PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 423.<br /><br />(13) Phan Bội Châu, <em>“Điếu Nguyễn Hữu Bài”</em>, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 429; Thiết Mai Tôn Thất Cảnh, <em>“Hơn một tiếng đồng hồ cùng cụ Phan Bội Châu”</em>, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 4, tr. 314 – 315, và, Phan Bội Châu, <em>“Mười bài vô đề”</em>, bài thứ 5, bộ sđd., tập 5, tr. 254 – 255. </span><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Lưu ý: Câu nói bằng tiếng Pháp của Hồ Chí Minh về Ngô Đình Diệm trong cuộc trả lời phỏng vấn do nhà báo Jean Lacouture thực hiện, “<em>Il aime sa patrie à sa manière” (ông ta yêu nước theo cách của ông ta)</em>. Nhiều người đọc, như Tôn Thất Mạnh Hào chẳng hạn, rất chú tâm đến chữ <em>“manière”</em> (cách thức; thủ đoạn; <em><strong>kiểu cách bề ngoài</strong></em>). Thực sự yêu nước có nhiều cách, trong đó, cách thức chịu làm nô lệ, tay sai để bảo toàn lòng kính chúa cùng lòng yêu nước để vừa được lên thiên đàng vừa vinh thân phì gia cũng là <em>một kiểu cách ra vẻ “yêu nước”</em>!</span><br /><span style="font-family:verdana;"><br /></span><span style="font-family:verdana;">Xem thêm: Thơ Phan Bội Châu viết về Thiên Chúa giáo:<br /><br />-- Phan Bội Châu, <em>“Chúc hạ “Vị Chúa báo” nhất chu niên”</em> (1940), bản dịch của Chương Thâu, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 478 – 479.<br />-- Phan Bội Châu, <em>“Viếng thân mẫu đồng chí Lê Bá Thuyên (nhà theo đạo Chúa)”</em>, theo Lưu Trần Thiển, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 428.<br /><br />Xem thêm: Về mối quan hệ giữa Phan Bội Châu với Thiên Chúa giáo:<br /><br />-- Nguyễn Ngọc Hà, <em>“Linh mục Đậu Quang Lĩnh và những hoạt động kính chúa yêu nước trong Duy tân hội”</em>, báo <em>“Người công giáo Việt Nam”</em>, số 9, 1-5-1995, in lại trong <em>“Côn đảo, kí sự & tư liệu”</em> (CĐ., KS. &TL.), Nxb. Trẻ, 1998, tr. 471 - 473.</span><br /><span style="font-family:verdana;">-- Lê Tự, bài <em>“Thầy Mai Lão Bạng ở Côn Đảo”</em>, trong CĐ., KS. &TL., Nxb. Trẻ, 1998, tr. 474.<br /><br /><span style="color:#ff0000;">(Bài viết sẽ được tác giả sửa chữa, bổ sung thêm)</span><br /><br /><span style="color:#ff0000;"><span style="font-size:85%;">Đưa lên web, lúc 11 giờ 45 phút cùng ngày</span>.</span><br /><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Sửa lỗi gõ phím vi tính: 14 giờ 30'</span></span><br /><span style="font-family:verdana;font-size:85%;">Chú thích: 16 giờ 25'</span><br /><span style="font-family:Verdana;font-size:85%;">TXA.</span><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;"><span style="font-size:85%;">Trau lại 2 câu: 7 giờ 54, 08-04 HB7 (2007)</span></span></span><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;"><span style="font-size:85%;">TXA.</span><br /><br /></span></span><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;"></span></span></span><span style="font-size:85%;"></span>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-29342526757669993962007-03-23T14:20:00.000+07:002007-03-23T14:20:56.163+07:00Hinh anh hoi thao o Hue, 02-7-2002 & hinh anh hoi nghi o Ha Noi, 01-11-2003<span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">BỔ TÚC HÌNH ẢNH HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886) TẠI HUẾ, 02-7-2002<br />& MỘT VÀI HÌNH ẢNH HỘI NGHỊ THÔNG BÁO NGHIÊN CỨU, SỬ LIỆU VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886) TRONG PHONG TRÀO VĂN THÂN, CẦN VƯƠNG, TỔ CHỨC TẠI HÀ NỘI, 01-11-2003</span> </span><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><p><br /><br /></span></p><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXLilFGZK38F7Xi5ZsrVzYg6Eqn_qgmG0G6ybPXeiwMDQfkS2v1ZftE02sfPDDH3iLNR5y1Gg3XFCW5MS8fcalh59BmbTff758pDqEk-QA39yA_sjHe0deozkmG1-9EzQiciVaSMAKVeL7/s1600-h/hoithao-hue-hb2_tvn-ndx.JPG"><span style="font-family:verdana;"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5045004973114120962" title="Nnc. Trần Viết Ngạc, Nnc. Nguyễn Đắc Xuân & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXLilFGZK38F7Xi5ZsrVzYg6Eqn_qgmG0G6ybPXeiwMDQfkS2v1ZftE02sfPDDH3iLNR5y1Gg3XFCW5MS8fcalh59BmbTff758pDqEk-QA39yA_sjHe0deozkmG1-9EzQiciVaSMAKVeL7/s320/hoithao-hue-hb2_tvn-ndx.JPG" border="0" /></span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Hình 1: Nnc. Nguyễn Đắc Xuân, Nnc. Trần Viết Ngạc (tính từ phía trái) & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp.<br /><br /><br /></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhy5Npf2EeltgGhMZ4sR22cjPCPOj2jML3bJmKdfurAZhtdeBWEVa_gXc-Ft8oaKbHwDngbPfByD3nlTKDVyXPEKM7IAnpR3cTL3_bqya3ryWR9GFfZiZbCMXuNEcFZtJFNJZh5_874t5hc/s1600-h/hoithao-hue-hb2-1_txa.JPG"><span style="font-family:verdana;"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5045004577977129698" title="Nv./nc. Trần Xuân An & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 [h.1] -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhy5Npf2EeltgGhMZ4sR22cjPCPOj2jML3bJmKdfurAZhtdeBWEVa_gXc-Ft8oaKbHwDngbPfByD3nlTKDVyXPEKM7IAnpR3cTL3_bqya3ryWR9GFfZiZbCMXuNEcFZtJFNJZh5_874t5hc/s320/hoithao-hue-hb2-1_txa.JPG" border="0" /></span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Hình 2: Nv./nc. Trần Xuân An (đứng phát biểu) & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 [h.1] -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp.<br /><br /><br /></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj9jwB3TCBp2-8PWjzdHY2poPcRg4sw2hQWz9jLZOVdTRpTKtJYNxcYrJCHb3W_dUy1as16FdhbRU2anU028kR69h7CMxHtDa06QmeMEUEwWcnciDhyZt-yv5CXgyd5PcmLeoClljYfEwcc/s1600-h/hoithao-hue-hb2-2_txa.JPG"><span style="font-family:verdana;"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5045004805610396402" title="Nv./nc. Trần Xuân An & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 [h.2]-- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj9jwB3TCBp2-8PWjzdHY2poPcRg4sw2hQWz9jLZOVdTRpTKtJYNxcYrJCHb3W_dUy1as16FdhbRU2anU028kR69h7CMxHtDa06QmeMEUEwWcnciDhyZt-yv5CXgyd5PcmLeoClljYfEwcc/s320/hoithao-hue-hb2-2_txa.JPG" border="0" /></span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Hình 3: Nv./nc. Trần Xuân An (ngồi đầu dãy ghế thứ 2, mang kính, áo xanh nhạt tay cộc) & các nhà nghiên cứu khác, tại hội thảo khoa học về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) ở Huế, 02-7-2002 [h.2] -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp.<br /><br /><br /></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTm0ZtZJB3m-tFjPXedtbpFXw7GkyAT2_Ge81q7Dz5YEWTO_cYESehzlIc7wmKme15H1PVgFOIhSel5lsq5YAz3fNN8fn2nOz_D_z1xfvkKlZF_mpC3SJXmI2x8wzrph9Dc0H6IH20RMD9/s1600-h/hoinghi-hanoi-hb3-2_dtq-dxl.JPG"><span style="font-family:verdana;"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5045004371818699474" title="Nsh. Dương Trung Quốc, Gs. Đinh Xuân Lâm & các nhà nghiên cứu khác, ở hội nghị thông báo nghiên cứu & sử liệu về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) trong phong trào Văn thân, Cần vương, tổ chức tại Hà Nội, 01-11-2003 [h.2]-- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTm0ZtZJB3m-tFjPXedtbpFXw7GkyAT2_Ge81q7Dz5YEWTO_cYESehzlIc7wmKme15H1PVgFOIhSel5lsq5YAz3fNN8fn2nOz_D_z1xfvkKlZF_mpC3SJXmI2x8wzrph9Dc0H6IH20RMD9/s320/hoinghi-hanoi-hb3-2_dtq-dxl.JPG" border="0" /></span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Hình 4: Gs. Đinh Xuân Lâm (dãy ghế chủ tịch đoàn, ngồi giữa, áo trắng), Nsh. Dương Trung Quốc (áo lam, phải) & các nhà nghiên cứu khác, ở hội nghị thông báo nghiên cứu & sử liệu về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) trong phong trào Văn thân, Cần vương, tổ chức tại Hà Nội, 01-11-2003 [h.2] -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp.<br /><br /></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaZF3yRsgMiZoI36KfAyZZUrCMzZESdxDoQJzgwyhcJnYMAMY9IGYsb26EGqcqh7KyILjHCF4-hlzcDFkpmS3ufxO9PZHWY4lhssnZ_5ooh10SGpjqNxi2RqaBAKv_oeII0aogqUFvj1qI/s1600-h/hoinghi_hanoi-hb3-1_dtq-dxl.JPG"><span style="font-family:verdana;"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5045004178545171138" title="Nsh. Dương Trung Quốc, Gs. Đinh Xuân Lâm & các nhà nghiên cứu khác, ở hội nghị thông báo nghiên cứu & sử liệu về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) trong phong trào Văn thân, Cần vương, tổ chức tại Hà Nội, 01-11-2003 [h.1]-- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaZF3yRsgMiZoI36KfAyZZUrCMzZESdxDoQJzgwyhcJnYMAMY9IGYsb26EGqcqh7KyILjHCF4-hlzcDFkpmS3ufxO9PZHWY4lhssnZ_5ooh10SGpjqNxi2RqaBAKv_oeII0aogqUFvj1qI/s320/hoinghi_hanoi-hb3-1_dtq-dxl.JPG" border="0" /></span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Hình 5: Nhà sử học Dương Trung Quốc (dãy ghế chủ tịch đoàn, phải, áo lam), Gs. Đinh Xuân Lâm (áo trắng, giữa) & các nhà nghiên cứu khác, ở hội nghị thông báo nghiên cứu & sử liệu về Nguyễn Văn Tường (1824-1886) trong phong trào Văn thân, Cần vương, tổ chức tại Hà Nội, 01-11-2003 [h.1] -- Ảnh do PGS.TS. Đỗ Bang cung cấp.<br /><br /><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Chùm hình ảnh do Th.s. Lê Tiến Công chuyển qua Yahoo.mail,<br />ngày 23-3 HB7 (2007).<br />TXA. đưa lên web lúc 13 : 55', cùng ngày.</span> </span><br /><br /><span style="font-family:Verdana;">Thành thật cảm ơn PGS.TS. Đỗ Bang & ThS. Lê Tiến Công.</span><br /><p><span style="font-family:Verdana;">Trần Xuân An</span></p>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-30619459442637585452007-03-19T07:00:00.000+07:002007-03-19T07:00:31.952+07:00PGS.TS. ĐỖ BANG -- GÓP PHẦN LÀM SÁNG TỎ NHỮNG UẨN KHÚC TRONG CUỘC ĐỜI CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG<strong>PGS.TS. ĐỖ BANG</strong><br /><br /><strong><span style="color:#ff0000;">GÓP PHẦN LÀM SÁNG TỎ NHỮNG UẨN KHÚC TRONG CUỘC ĐỜI CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG</span></strong><br /><br />Hai câu cuối trong bài <strong><em><a href="http://tranxuanan-writer-5.blogspot.com/2006/11/nguyn-vn-tng-1824-1886-th-vi-nt-v-con.html">“Giải triều” (chia tách triều đình)</a></em></strong> vào cuối đời của Nguyễn Văn Tường (1824-1886) đã truyền lại cho hậu thế một nỗi đau, một uẩn khúc khó lí giải trong cuộc đời làm quan của mình:<br /><br /><em>U trung thuỳ bạch thiên thu hậu<br />Xã tắc quân vương thục trọng khinh</em><br /><br />Có nghĩa là:<br /><br /><em>Đúng sai xin để ngàn thu xét<br />Tổ quốc, vua, dân, đâu trọng khinh</em><br />(Trần Đại Vinh dịch)<br /><br />Ở Bình Định khi nghe tin Nguyễn Văn Tường mất, Đào Tấn – nhà soạn tuồng hàng đầu vào thế kỉ XIX cũng là một đại thần triều Nguyễn, được Nguyễn Văn Tường gợi ý xin về nghỉ hưu sớm lúc tuổi 40 để chuẩn bị phong trào Cần vương ở các tỉnh nam miền Trung, đã viếng ông bằng hai câu đối:<br /><br /><em>Quốc kế thị phi lân sử định<br />Thiên phương sinh tử nhạn thư điêu</em><br /><br />Có nghĩa là:<br /><br /><em>Kế nước đúng sai trang sử quyết<br />Phương trời sống chết cánh hồng chao</em><br />(Tôn Thất Mạnh Hào dịch)<br /><br />Đó là những trăn trở của người trong cuộc mà hậu thế có trách nhiệm phải làm sáng tỏ.<br /><br />Nguyễn Văn Tường - một đại thần hàng đầu triều Tự Đức, một quyền mưu sắc sảo trong các chính sách nội trị và ngoại giao của triều Nguyễn, trước hoạ ngoại xâm. Nhưng cuộc đời của ông còn để lại nhiều uẩn khúc, nhiều ẩn số cần có lời giải thoả đáng.<br /><br />Đã có một cuộc hội nghị khoa học về <em>“Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”</em> do Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 20 tháng 6 năm 1996; nhiều vấn đề trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Tường được khảo cứu, phân tích, nhưng cũng có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, tồn nghi, cần có lời giải như:<br /><br />1. Về gia thế của Nguyễn Văn Tường và việc Nguyễn Văn Tường lấy họ Nguyễn Phúc để dự thi cử nhân vào thời Thiệu Trị (1842).<br /><br />2. Đặc điểm yêu nước và vai trò chủ chiến của Nguyễn Văn Tường trong cuộc đấu tranh với thực dân Pháp.<br /><br />3. Vai trò của Nguyễn Văn Tường trong việc phế lập các vua triều Nguyễn: Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc (1883)<br /><br />4. Nguyễn Văn Tường với những hoạt động tích cực cho công cuộc chống Pháp (1883-1885).<br /><br />5. Nguyễn Văn Tường ở lại Huế là một sự đầu thú hay một sứ mạng giao phó của triều đình Huế (1885).<br /><br />6. Bi kịch yêu nước của Nguyễn Văn Tường (1885-1886).<br /><br /><br /><strong>1.<br /><br />Về gia thế của Nguyễn Văn Tường và việc Nguyễn Văn Tường lấy họ Nguyễn Phúc để dự thi cử nhân vào thời Thiệu Trị (1842).</strong><br /><br />Các gia phả họ Nguyễn, chi Nguyễn Văn ở làng An Cư, huyện Triệu Phong, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị và ở thành phố Huế đều xác nhận Nguyễn Văn Tường sinh ngày 22 tháng 8 năm Giáp thân. Bản chữ Hán ghi: <em>“Công sinh ư Minh Mạng ngũ niên Giáp thân bát nguyệt nhị thập nhị nhật”</em> (1). Ông sinh vào ngày 22 tháng 8 năm Giáp thân năm thứ năm niên hiệu Minh Mạng, nhằm ngày 14 tháng 10 năm 1824. Ông mất ngày 01 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ nhất tại Tahiti, thuộc địa Pháp, thọ 64 tuổi, tức vào ngày 31 tháng 7 năm 1886.<br /><br />Về việc Nguyễn Văn Tường lấy họ Nguyễn Phúc để dự thi cử nhân dưới thời vua Thiệu Trị là vấn đề khó hiểu, đã gây nhiều bàn luận về ông.<br /><br />Sách “Đại Nam thực lục” ghi rằng: <em>“Nhâm dần, Thiệu Trị năm thứ 2, mùa thu, tháng bảy, trong danh sách trúng tú tài trường Thừa Thiên, có tên là Nguyễn Phước Tường. Vua ghét Tường mạo dùng họ nhà vua, sai cắt bỏ tên trong sổ tú tài, đổi làm Nguyễn Văn Tường và giao cho Viện Đô sát trị tội. Khi xét án dâng lên, vua lại giao cho đình thần bàn lại. Tường bị tội đồ 1 năm, học quan ở tỉnh, phủ huyện, quan Quốc tử giám, quan trường Bộ Lễ và Viện Đô sát đều bị phân biệt giáng phạt”</em> (2).<br /><br />Gia phả cũng ghi rằng <em>“Thiệu Trị ngũ niên thi trúng tú tài hậu dĩ can quốc tính quyển diện đề Nguyễn Phước Tường truất lạc nghị án”</em>. Có nghĩa là: Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) (3), thi đỗ tú tài, sau vì phạm vào họ vua (ngoài quyển thi đề tên Nguyễn Phước Tường) bị đánh hỏng, nghị án (4).<br /><br />Các thế hệ con cháu Nguyễn Văn Tường cũng có tiếp nhận lời truyền này qua người con dâu của Nguyễn Văn Tường là công chúa Đoan Thuận (5), cho rằng Thiệu Trị biết rõ điều đó nên gởi tiền cho ăn học. Khi dự thi Nguyễn Văn Tường lấy họ nhà vua nên bị kết tội. Sau vua Tự Đức biết rõ nên lại cho đi thi (6). Hậu duệ của ông ở làng An Cư cho biết: Sau khi bị án trường thi, Nguyễn Văn Tường bị tội đồ cắt cỏ cho ngựa nhưng ông đã bỏ tiền ra thuê một số người làm là phù hợp với bản án mà “Đại Nam thực lục” đã ghi chứ không phải như một số tài liệu lưu trữ của Pháp cho rằng <em>“Cha đẻ của Nguyễn Văn Tường là một người thợ mộc bình thường đã dính líu vào một cuộc nổi dậy. Vì tội của cha mà Tường không được ra ứng thí, nhưng đến đầu thời Tự Đức thì [được] miễn xá và thi đậu hết các bậc”</em> (7).<br /><br />Ở Huế còn truyền lại câu chuyện đối đáp giữa quan giám khảo trường thi Thừa Thiên với Nguyễn Văn Tường về việc Tường mạo nhận họ vua để dự thi.<br /><br />Tường trả lời: <em>“Năm ấy đức Minh Mạng đi tuần du ở Quảng Trị có đem Tường Khánh công (tức vua Thiệu Trị sau này) đi theo. Ở hành cung Quảng Trị, công thấy một người con gái đẹp đi ngang, công gọi vào “dùng”. Sau công theo phụ hoàng trở lại Huế. Không ngờ người con gái ấy lại có thai. Người con gái đó là mẹ tôi. Khi sinh ra tôi, mẹ tôi cứ tình thật cho tôi mang họ nhà vua”</em> (8).<br /><br />Sự việc này, kiểm tra lại ở sử sách “Châu bản triều Nguyễn”, triều Minh Mạng, năm thứ 4 và “Đại Nam thực lục đệ nhị kỉ”, tập 6 (năm 1822-1823) đều không thấy chép về sự kiện vua Minh Mạng đi Quảng Trị vào năm 1823 để Tường Khánh công (tức Thiệu Trị) năm đó 15 tuổi có dịp đi theo. Vua Thiệu Trị cũng xác nhận Nguyễn Văn Tường là người mạo họ vua chứ không phải con vua. Nhà vua nói: <em>“Văn Tường đã đi học, đi thi, không thể là không biết, sao lại còn mạo đội họ nhà vua”</em> (9).<br /><br />Về Nguyễn Văn Tường, không hiểu sao vào năm 1842 lúc nộp quyển đự thi ông lấy chữ lót là “Phúc” thay cho chữ “Văn” để rồi bị phạm tội. Ông là người duy nhất trong họ này đã có lúc lấy lót chữ “Phúc” để nộp quyển cho trường thi, còn trong gia phả vẫn ghi chữ “Văn”.<br /><br />Dòng họ này lúc đầu lót chữ “Thế” (Nguyễn Thế…), đến đời thứ 5 lại lót chữ “Văn”.<br /><br />Nguyễn Văn Tường là đời thứ 7; gia phả ghi là Nguyễn Văn Tường. Chính ông vào năm 1874, lúc làm thượng thư Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần, ông đứng tên Nguyễn Văn Tường để soạn bản gia phả của dòng họ mình với lời đề từ rất trân trọng: <em>“Họ Nguyễn ta từ lúc đến đây lập nghiệp sinh tụ ngày càng đông thành một họ lớn trong làng. Cũng nhờ phúc ấm của tổ tiên mà phái ta trở thành một chi phái lớn trong họ…”</em>.<br /><br />Theo gia phả, Nguyễn Văn Tường là con trai trưởng của Nguyễn Văn Dậu, sinh năm Mậu ngọ (1798), chết năm Giáp tí (1864) và bà vợ chánh tên là Liên, chết ngày 6 tháng 9. Bà Liên sinh được 3 người con trai, con đầu là Nguyễn Văn Tường và các em Nguyễn Văn Độ, Nguyễn Văn Phức, và 5 người con gái.<br /><br />Ông Nguyễn Văn Dậu còn có hai bà vợ thứ tên là Cảnh và Vệ.<br /><br />Nguyễn Văn Tường có 7 bà vợ và 19 người con.<br /><br />Với trách nhiệm trước gia tộc trong việc tu soạn gia phả dòng họ của mình và với quyết tâm làm rạng rỡ dòng họ Nguyễn Văn, Nguyễn Văn Tường là người con ưu tú của họ Nguyễn ở An Cư, Quảng Trị.<br /><br /><br /><strong>2.<br /><br />Đặc điểm yêu nước, thương dân và vai trò chủ chiến của Nguyễn Văn Tường trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp (1850-1883).</strong><br /><br />Sau khi đỗ cử nhân năm Canh tuất (1850), Nguyễn Văn Tường được bổ nhiệm làm các chức vụ: Huấn đạo huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi), tri huyện Thành Hoá (Quảng Trị, 1855), tán lí Bộ Binh (1858), án sát Quảng Nam (1861), biện lí Bộ Binh kiêm dinh điền sứ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên (1863), phủ doãn Thừa Thiên (1864), sau kiêm chức khuyến nông sứ và tuyên phủ sứ…<br /><br />Với những chức vụ nói trên, Nguyễn Văn Tường luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân, như tổ chức chiêu dân lập ấp, khẩn hoang, phát triển thuỷ nông, mở mang chợ búa, mở ngành nghề, phủ dụ các dân tộc ít người ở miền núi Quảng Trị; tổ chức bố phòng nhằm bảo đảm trị an cho nhân dân. Đến đâu ông cũng khảo sát tường tận thế đất, lòng người để có chủ trương phù hợp làm tham mưu cho vua Tự Đức nên được dân thương và vua tin dùng. Nhiều nơi ở Cam Lộ nhân dân làm đền thờ Nguyễn Văn Tường để ghi nhớ những năm ông làm tri huyện Thành Hoá, dinh điền sứ và khuyến nông sứ ở vùng đất này.<br /><br />Năm 1866, với trọng trách là phủ doãn Thừa Thiên nhưng đã để nổ ra cuộc khởi nghĩa của Đoàn Hữu Trưng ở ngay kinh đô Huế nên Nguyễn Văn Tường bị cách chức. Tuy thế, do trọng tài năng, Nguyễn Văn Tường vẫn được vua Tự Đức bổ nhiệm làm bang biện huyện Thành Hoá và khâm phái sơn phòng tỉnh Quảng Trị. Năm 1867, Nguyễn Văn Tường được điều về kinh để tham gia đoàn sứ vào Nam Kỳ thương thuyết với Pháp. Qua sự việc này, Nguyễn Văn Tường đã bộc lộ được bản lĩnh chính trị, tài năng ngoại giao, kế sách giữ nước nên được vua Tự Đức tin cậy giao làm tán tương quân vụ vùng Tây Bắc: Sơn – Hưng – Tuyên, Lạng - Bằng để quan hệ với Trung Quốc, đánh dẹp, tiễu phỉ, trấn áp giặc Khách (người Hoa) và vỗ về nhân dân. Đó là những thực tiễn để chuẩn bị cho thời kì hoạt động ngoại giao sắc sảo và thành đạt của Nguyễn Văn Tường từ năm 1873 đến 1883.<br /><br />Năm 1883, J. Dupuis gây hấn ở sông Hồng, tạo cớ để cho F. Garnier đem quân đánh Bắc Kỳ. Trước tình hình đó, Nguyễn Văn Tường được vua Tự Đức triệu về kinh để làm phó sứ (chánh sứ là Lê Tuấn) vào Nam Kỳ thương thuyết với Pháp. Đến Gia Định, Nguyễn Văn Tường đề nghị phía Pháp phải giải quyết vụ rắc rối ở Bắc Kỳ trước khi thương thuyết. Trưởng đoàn Pháp là Philastre đồng ý viết thư đề nghị Garnier rút quân. Philastre và Nguyễn Văn Tường đáp tàu ra Hà Nội để bàn định. Tàu đến Hải Phòng thì nghe tin F. Garnier và một số sĩ quan Pháp bị giết chết. Philastre tức giận đòi huỷ bỏ cuộc thương thuyết, về Sài Gòn để xin lệnh của Paris. Nguyễn Văn Tường khôn khéo thuyết phục, Philastre mới chịu nghe và đến Hà Nội để thương thuyết. Qua những biện giải khôn khéo của Nguyễn Văn Tường, Philastre đồng ý trả lại các tỉnh Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình và Hà Nội cho triều đình Huế. Vua Tự Đức khen Nguyễn Văn Tường: <em>“Châm chước thời cơ làm việc khéo”</em> (10).<br /><br />Tác giả Devaux có nhận xét: <em>“Ông Philastre được ban phẩm hàm cao quý của triều đình An Nam và chẳng mấy chốc dần dần chịu ảnh hưởng của ông Bộ trưởng đối ngoại và nhất là ông Nguyễn Văn Tường trong khi ông Philastre làm phiên dịch chính thức ở Sài Gòn và ông Tường làm phó lãnh sự”</em> (11).<br /><br />Sau sự việc này, uy tín ngoại giao của Nguyễn Văn Tường như ngôi sao chói lọi, trở thành công thần đầu triều Tự Đức. Rheinart (khâm sứ Trung Kỳ năm 1875) có nhận định: <em>“Tự Đức đã chịu ơn khi thâu hồi các tỉnh Bắc Kỳ trong một thời gian tưởng đã mất. Giả thuyết ấy được người ta tin và làm cho Tường kể từ năm 1874 trở thành nhân vật ảnh hưởng nhất triều đình Huế. Được coi như người dũng mãnh đã làm cho Pháp phải nhả Bắc Kỳ, nay Tường cũng được coi như người có khả năng làm cho Pháp nhả nốt Nam Kỳ”</em> (12). Sau thắng lợi này, vua Tự Đức đặc cách phong Nguyễn Văn Tường làm thượng thư Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần, tước Kỳ Vĩ bá (13). Ông còn kiêm chức Thương bạc đại thần phụ trách ngoại giao và ngoại thương, là người đại diện triều đình Tự Đức toàn quyền đảm nhận công việc đàm phán với Pháp. Qua tiếp xúc, Nguyễn Văn Tường biết rõ bản chất của thực dân Pháp và các nước phương Tây nên luôn ở thế đối đầu khi thương thuyết, ông cho đó cũng là một hình thức đấu tranh để bảo vệ chủ quyền. Chính khâm sứ Rheinart sau nhiều lần tiếp xúc với Nguyễn Văn Tường cũng có nhận xét: <em>“Khi trở thành người đứng đầu phe cứng rắn, chính Tường đã xúi giục Tự Đức coi thương hiệp ước năm 1874. Do đó làm mối quan hệ Việt – Pháp bị suy thoái dần”</em> (14). Nhiều yêu cầu của khâm sứ Rheinart bị Nguyễn Văn Tường bác bỏ, người Pháp rất uất ức. Năm 1881, khi thay làm khâm sứ, De Champeaux đã dùng áp lực với triều đình Huế để Nguyễn Văn Tường từ chức quan Thương bạc. De Champeaux đã viết rằng: <em>“Với tư cách sau (phụ trách Thương bạc), ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông tan tành cả về phía ấy”</em> (15).<br /><br />Vua Tự Đức đã mắc mưu khâm sứ Pháp, vua cho là: <em>“Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường kiêm nhiều chức, bận nhiều việc, cho giảm bớt công việc ở Nha Thương bạc”</em> (16).<br /><br />Tháng 4 năm Quý mùi (1883), Nguyễn Văn Tường được sung làm phụ chính đại thần cùng với Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết thì [đó cũng là lúc – ct.] đất nước ta rơi vào tình thế khó khăn và đen tối, nhất là sau cái chết của vua Tự Đức (19-7-1883).<br /><br /><br /><strong>3.<br /><br />Vai trò của Nguyễn Văn Tường trong việc phế lập các vua triều Nguyễn: Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc (1883)</strong><br /><br /><em><strong>--- Việc phế Dục Đức:</strong></em><br /><br />Vua Tự Đức không có con nên lất 3 người cháu làm con nuôi. Đó là Ưng Chân (tức vua Dục Đức sau này), sinh năm 1853 (con của Nguyễn Phúc Hồng Y), Ưng Thị tức Chánh Mông, sinh năm 1864 (sau này là vua Đồng Khánh) và Ưng Đăng, sinh năm 1869 (sau này là vua Kiến Phúc). Ưng Thị là con của Nguyễn Phúc Hồng Cai (Hợi) (17). Ngày 14 tháng 6 năm Quý mùi (17-7-1883), 2 ngày trước khi chết, vua Tự Đức cho triệu Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cung lập phụ chính đại thần và ban di chiếu truyền ngôi cho Dục Đức. Để cảnh tỉnh vua mới, bài chiếu có nêu một số khuyết tật của Dục Đức, có đoạn như sau:<br /><br /><em>“Đản vi hữu mục tật, bí nhi bất tuyệt, cửu khủng bất minh, tính phả hiếu dâm, diệc đại bất thiện, vị tất năng đương đại sự. Quốc hữu trưởng quân, xã tắc chi phúc, xã thử, tương hà dĩ tai!”.</em><br /><br />Có nghĩa là: <em>"Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm, cũng là điều chẳng tốt, chưa chắc đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây!”</em>(18).<br /><br />Sau khi vua Tự Đức chết, ngày 21-7-1883, Dục Đức triệu tập quần thần ở điện Quang Minh và đề nghị đình thần cho bỏ đoạn di chiếu nói trên, nhưng đình thần không chịu vì cho rằng Hội đồng Phụ chính đã đề nghị vua Tự Đức bỏ đoạn này nhưng nhà vua đã không chịu. Dục Đức <em>“… sai sao tờ di chiếu, tự tay xoá bỏ đoạn ấy đi”</em> (19).<br /><br />Đến lúc lễ đăng quang, Nguyễn Văn Tường cáo ốm không dự chầu nhưng đứng ở phòng bên. Tôn Thất Thuyết đứng bên cạnh Trần Tiễn Thành. Khi đọc đến đoạn văn trên, Trần Tiễn Thành đọc nhỏ như cố ý không cho ai nghe. Khi đọc xong, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chất vấn Trần Tiễn Thành sao không đọc y như tờ di chiếu. Thành chống chế. Nguyễn Văn Tường yêu cầu Nguyễn Trọng Hợp đọc lại di chiếu. Bài chiếu đọc xong, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phái quân túc vệ canh gác cẩn mật, bắt hết phe cánh của Dục Đức rồi tuyên bố các tội:<br /><br />+ Tự ý sửa bỏ di chiếu<br />+ Có đại tang mà mặc áo màu sặc sỡ<br />+ Hư hỏng, chơi bời<br /><br />Rồi đề nghị phế bỏ, lập vua mới.<br /><br />Phan Đình Phùng phản đối, bị bắt trói, Trần Tiễn Thành và đình thần không ai dám trái lệnh, đều kí tên xin ý chỉ của bà thái hoàng thái hậu Từ Dũ để phế Dục Đức (20).<br /><br />“Hạnh Thục ca” cũng xác nhận Dục Đức chết vì cố ý cải lại di chiếu:<br /><br /><em>Tự quân chưa chính ngôi trời<br />Chiếu thư lại cải quên lời sách xưa</em> (21)<br /><br />Như vậy, việc phế Dục Đức của hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ngoài 3 lí do trên còn có vấn đề sâu sắc là Dục Đức không thể là người cáng đáng được việc nước, không đại diện cho thế đấu tranh vì lợi ích dân tộc của phái chủ chiến trong tình thế cấp bách khi thực dân Pháp luôn dùng áp lực quân sự để hòng chiếm toàn bộ đất nước ta. Các tác giả trong Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc đã có nhận xét rất đùng về Dục Đức: <em>“Trước đây ngài có giao thiệp qua lại với người Pháp, từ năm Tân tị (1881), ngài đã từng chuyển giao nhiều tài liệu quan trọng về việc nước cho trú sứ Pháp là Rheinart. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vốn nắm mọi quyền hành trong nước sợ tai hoạ khi ngài lên ngôi, nên thừa dịp này âm mưu phế lập”</em> (22).<br /><br />Mối quan hệ giữa Dục Đức với khâm sứ Rheinart cũng được Trần Trọng Kim ghi lại trong sách “Việt Nam sử lược”: <em>“Bấy giờ ông Rheinart lại sang làm khâm sứ ở Huế, thấy con vua Đồng Khánh còn nhỏ, lại nhớ ông Dục Đức ngày trước, khi vua Dực Tông (Tự Đức) hãy còn thường hay đi lại với người Pháp. Bởi vậy khâm sứ nghĩ đến tình cũ mà lập Bửu Lân, con ông Dục Đức, lên làm vua (sau này là Thành Thái)”</em> (23).<br /><br />Vậy, Tự Đức chọn Dục Đức nối ngôi, ngoài việc lớn tuổi, còn là một giải pháp hoà hiếu đối với Pháp, điều đó làm cho phe chủ chiến, đứng đầu là hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, bất ngờ, nên đã phản ứng quyết liệt, dẫn đến việc phế bỏ ngay trong lễ đăng quang. Đây là vấn đề quan điểm chính trị, sự lựa chọn con đường đấu tranh chống Pháp giữa phái chủ chiến và chủ hoà, thoả hiệp, đầu hàng mà Dục Đức đã có nhiều bộc lộ chứ không phải như một số ý kiến trước đây cho rằng việc phế Dục Đức là do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết “đã đổi tờ di chiếu” (24), hay sợ Dục Đức sau này sẽ trả thù (25).<br /><br /><strong><em>--- Việc tôn, phế Hiệp Hoà:</em></strong><br /><br />Sau khi phế Dục Đức, đình thần lưu ý đến [1 trong – ct.] 2 người có thể kế vị, đó là Ưng Đăng, được vua Tự Đức rất quý. Vua cho rằng: <em>“Ưng Đăng hầu hạ cẩn thận, biết sợ, dạy được, chưa thấy có vết gì, nhưng tuổi còn ít, đương học chưa thông, đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu”</em> (26).<br /><br />Ưng Đăng lại là em của Công nữ Như Khuê (Đoan Thuận), vợ của Nguyễn Văn Tộ là con trai của Nguyễn Văn Tường. Tự Đức muốn tạo một uy thế cho Nguyễn Văn Tường như khâm sứ Rheinart đã nhận định: <em>“Tự Đức muốn gây thêm tín nhiệm và ảnh hưởng cho thượng thư của mình, làm cho ông này trở thành kẻ thừa hành trung tín theo ý muốn, bằng cách làm cho ông ta quan tâm tới việc đưa lên ngôi một ông hoàng nay đã là anh em rể với con ông”</em> (27).<br /><br />Phải chăng đây cũng là một lí do sâu xa mà Nguyễn Văn Tường không đồng tình lập Dục Đức lên ngôi.<br /><br />Trong khi đó, dựa vào di chiếu “Nước cần có vua nhiều tuổi”, Tôn Thất Thuyết đề nghị đình thần lập Lãng quốc công, tức Hồng Dật, em của vua Tự Đức lên ngôi. Tôn Thất Thuyết cho rằng: “Hoàng đệ Lãng quốc công có tư chất thông minh, vốn quen biết sẵn” (28). Trước sự việc lớn lao và bất ngờ, Lãng quốc công lo sợ: <em>“Đứng dậy khóc, nói rằng: Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, thực vạn vạn phần không dám nhận”</em> (29). Nhưng được Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường thuyết phục, cuối cùng việc đăng quang vẫn được tổ chức, lập nên triều Hiệp Hoà (20-7-1883). Lo sợ trước uy lực của hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, Hiệp Hoà quay ra dựa vào thế lực của Pháp nhằm củng cố thế lực phe chủ hoà, thân Pháp để ám hại Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Việc bị bại lộ, ngày 26 tháng mười năm Quý mùi (28-11-1883), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết họp đình thần truất phế Hiệp Hoà và sau đó bắt uống thuốc độc mà chết.<br /><br /><em><strong>--- Việc Ưng Đăng (vua Kiến Phúc):</strong></em><br /><br />Sau khi phế bỏ Hiệp Hoà, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cho người đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm lăng để rước Ưng Đăng về làm vua. Ưng Đăng nói: <em>“Ta còn bé sợ không kham nổi”</em> (30). Nhưng được Nguyễn Văn Tường vả Tôn Thất Thuyết giải thích. Ưng Đăng lên ngôi lấy niên hiệu là Kiến Phúc (2-12-1883). Dưới thời Kiến Phúc nhóm chủ chiến đã nắm được ưu thế ở trong triều, chuẩn bị tích cực cho công cuộc chống Pháp. Song đến ngày Kiến Phúc bị chết, dư luận cho rằng, chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tìm cách giết đi để không ai thực hiện hiệp ước đã kí với Pháp, hoặc vì Kiến Phúc thoả hiệp với Pháp nên nhóm chủ chiến loại trừ, ác ý hơn khi có người cho rằng, chính Nguyễn Văn Tường đã giết vua Kiến Phúc vì bà Học Phi, mẹ của Kiến Phúc, có tư tình với Nguyễn Văn Tường, bị vua quở trách. Lo sợ, Nguyễn Văn Tường tìm cách bỏ thuốc độc giết chết Kiến Phúc.<br /><br />Dư luận trên hoàn toàn có ác ý với Nguyễn Văn Tường. Vì Kiến Phúc là mục tiêu mà Nguyễn Văn Tường tôn lập làm vua trong quan hệ gia đình mà vua Tự Đức đã tín nhiệm và cũng để thực hiện mục tiêu thành công của phái chủ chiến.<br /><br />Sự thật thì vua Kiến Phúc chết là vì bệnh. Nhà vua được điều trị trong một thời gian dài. “Đại Nam thực lục” ghi rằng: <em>“Vua không được khoẻ. Bốn tháng trước, ngọc thể vi hoà, đình thần đã xin vua tĩnh dưỡng và chia nhau đi cầu đảo các linh từ. Sau đó đã khoẻ, nhưng chưa được bình phục như cũ. Đến ngày mồng 7 tháng này, ngày kỉ mão, mới ngự điện Văn Minh, chịu lễ chầu mừng, ban thưởng lụa hoa cho các bầy tôi có sai bậc, rồi sau lại không được khỏe. Thái y tiến thuốc, không thấy công hiệu. Ngày mồng 10, nhâm ngọ, bệnh kịch; giờ ngọ hôm ấy vua mất ở chính điện Kiền Thành”</em> (31).<br /><br />Cái chết của Kiến Phúc cũng được ghi lại trong “Hạnh Thục ca” từ câu 399-404:<br /><br /><em>“Nào ngờ nhiều nỗi chẳng may<br />Trị vì sáu tháng bệnh rày lại mang<br />Hết lòng khấn vái thuốc thang<br />Gẫm âu số mệnh đành khôn cải trời<br />Nương mây chút sớm tếch vời<br />Năm Thân tháng sáu rụng rời cành xuân".</em><br /><br />Vua Kiến Phúc lên ngôi lúc 14 tuổi, sau 6 tháng trị vì thì chết. Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật và đình thần tôn Ưng Lịch là em vua Kiến Phúc lên ngôi lúc 12 tuổi, lấy niên hiệu Hàm Nghi, tiếp tục tạo lợi thế cho nhóm chủ chiến trong triều đình Huế.<br /><br />Từ ngày vua Tự Đức chết, 19-7-1883 đến lúc Kiến Phúc lên ngôi, 2-12-1883, chỉ hơn 4 tháng mà ở triều đình Huế đã có 3 vua bị phế, lập: Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, nên dân gian có câu:<br /><br /><em>Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết<br />Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường</em><br /><br />Nghĩa là:<br /><br /><em>Một sông hai nước lời khôn nói<br />Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành</em><br /><br />Cũng có nghĩa: Một sông (sông Hương), hai nước (Việt – Pháp) là do Tôn Thất Thuyết mà ra. Bốn tháng ba vua là tại Nguyễn Văn Tường. [Cần hiểu với nghĩa tổng hợp cả hai câu, không nên tách từng câu một – ct.].<br /><br /><em>Hai câu này nhằm phê phán hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong việc phế lập các vua trong triều đình Huế [TXA. nhấn mạnh].</em> Nhưng thực chất việc phế lập của các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là nhằm loại bỏ phe cánh chủ hoà, thân Pháp ở trong triều mà những ông vua này không đại diện cho tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, trái lại họ đã có những hành động câu kết, thoả hiệp với giặc. Việc phế, lập này là chính đáng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và dân tộc, cần được tôn vinh.<br /><br /><br /><strong>4.<br /><br />Nguyễn Văn Tường với những hoạt động tích cực cho công cuộc chống Pháp (1883-1885).</strong><br /><br />Việc phế lập các vua thân Pháp là mặt tích cực của phái chủ chiến ở trong triều mà đứng đầu là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Ngay lúc Tự Đức còn sống, Nguyễn Văn Tường đã tham mưu cho nhà vua để tìm cách vô hiệu hoá hiệp ước năm 1874. Rồi thành Tân Sở được xây dựng ở vùng núi Cam Lộ, Quảng Trị được Nguyễn Văn Tường trực tiếp chi huy triển khai từ năm 1883 cùng các sơn phòng khác được xây dựng ở vùng núi các tỉnh miền Trung để chuẩn bị cuộc kháng Pháp lâu dài là một nhạy cảm chính trị của Nguyễn Văn Tường, thể hiện tinh thần chống Pháp tích cực của ông. Hiệp Hoà không dám ra quân, mong chờ giặc Pháp nương tay để vua không bị giết, cung điện không bị tàn phá thông qua một hiệp ước. Các hiệp ước 1883, 1884 như một sự sỉ nhục nên Nguyễn Văn Tường không kí tên để có lí do về sau không thực hiện điều khoản các hiệp ước đó. Người Pháp nhận ra điều nay, đã viết: <em>“Ông Nguyễn Văn Tường cử hai đại diện để ông khỏi phải tự tay kí tên. Đến thương thuyết ở nhà phái bộ, cái từ “Bảo hộ: đã được bàn cãi rất kĩ lưỡng, rồi đến điều khoản V cho phép khâm sứ và tuỳ tùng được ngụ ở Mang Ca, trong Thành Nội cũng được bàn cãi rất lâu”</em> (32).<br /><br />Giáo sư Đinh Xuân Lâm cũng cho biết: <em>“Một vấn đề nữa rất gay cấn lúc đó: Việc ghi hai chữ “bảo hộ” vào điều ước. Về phía triều đình, ý kiến là không muốn dùng từ “bảo hộ” mà dùng từ “bảo trợ”. Đại diện Pháp tại Huế là Rheinart biết rõ qua báo cáo mật của các giáo sĩ Pháp rằng phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường kiêm thượng thư Bộ Lại, người trực tiếp theo dõi và chỉ đạo thương lượng với Pháp, cương quyết không chịu để trong điều ước hai chữ “bảo hộ”. Theo ông thà nhường hẳn tỉnh Bình Thuận cho Pháp chứ không công nhận hai chữ “bảo hộ” vào trong nội dung điều ước. Patenôtre phải điện về Paris xin ý kiến. Chính phủ Pháp vẫn giữ hai chữ “bảo hộ” nhưng phảo tu chỉnh lời văn trong điều ước cho mềm dẻo, lịch sự hơn, bỏ bớt những từ và ý xúc phạm triều đình Huế”</em> (33).<br /><br />Sau khi hiệp ước đã kí, Nguyễn Văn Tường cũng tìm cách trì hoãn, từ chối việc Pháp thực hiện điều ước đ1ng quân ở Mang Cá.<br /><br />Cái chết của vua Hiệp Hoà làm thất vọng đối với Pháp, một ấm ức mà phía Pháp phải tự kiềm chế, rồi việc tôn Kiến Phúc lên ngôi không cần có ý kiến của Pháp dù khâm sứ De Champeaux phản đối quyết liệt. Nay là lễ đăng quang vau Hàm Nghi, phái chủ chiến cũng không thông qua nhà nước bảo hộ là một sự phủ nhận những điều khoản đã kí, là một thách thức đối với chính phủ Pháp. Do đó, trung tướng Pháp là Millot quyết định đưa gấp một trung đoàn ra Huế để đánh chiếm kinh thành và tấn phong vua mới. Đại tá Guerrier, người chỉ huy đạo quân này, đưa tin hăm doạ Nguyễn Văn Tường, hẹn trong vòng 12 tiếng đồng hồ sẽ pháo kích vào kinh thành (34). Sau những trao đổi căng thẳng giữa Nguyễn Văn Tường và đại tá Guerrier, khâm sứ Rheinart, cuối cùng lễ tấn phong vua Hàm Nghi vẫn được thực hiện như ý muốn của triều đình Huế (35).<br /><br />Thế là triều đình Huế vẫn của triều đình Huế và vua Hàm Nghi vẫn lên ngôi theo đúng nghi lễ của triều đình Việt nam là nhờ có sự sắp xếp khéo léo và đấu tranh kiên quyết của Nguyễn Văn Tường.<br /><br />Tiếp đó Pháp đòi đ1ong quân ở đồn Mang cá, yết hầu của kinh thành Huế. Nguyễn Văn Tường lại quyết liệt phản đối. Một tác giả Pháp đã viết: <em>“Ông phụ chính Tường, đúng như chúng ta dự đoán, phản đối kịch liệt hơn bằng cách cho rằng hiệp ước chưa được phê chuẩn và điều V được nói trong hiệp ước là do bị ép, và sự chiếm đóng này sẽ gây trở ngại cho việc phòng thù kinh đô Huế, công việc mà ông phụ chính muốn giấu các nhà chức trách Pháp”</em> (36).<br /><br />Về việc xử lí chiếc ấn bằng bạc mạ vàng “Việt Nam quốc vương chi ấn” do Trung Hoa cấp cũng hết sức gay cấn. Patenôtre muốn đưa về Paris, Nguyễn Văn Tường lại kiên quyết không chấp nhận. Cuối cùng chiếc ấn bị nung chảy dưới sự chứng kiến của Nguyễn Văn Tường và Patenôtre.<br /><br />Về vụ án ông hoàng Gia Hưng, một tay sai đắc lực của Pháp mà khâm sứ Rheinart có ý định đưa lên làm vua. Gia Hưng bị bắt, phía Pháp phản đối kịch liệt nhưng Nguyễn Văn Tường tuyên bố: <em>“Ông hoàng phải được toà án Việt Nam xét xử về hành vi đời tư”</em>. Sau vụ xử Gia Hưng, phe chủ hoà và tay chân thân Pháp trong triều đình Huế bị phe chủ chiến loại bỏ. Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Hưu Độ, tay sai đắc lực của Pháp, được lệnh phải tự sát (37).<br /><br />Đấu tranh ngoại giao để hạn chế sự can thiệp của Pháp đối với chủ quyền đất nước, loại trừ phe chủ hoà làm tay sai cho Pháp, tăng cường thế lực của phe chủ chiến ở trong triều cùng binh lực là kế sách đánh Pháp lâu dài, Nguyễn Văn Tường đã có những chỉ thị cho quan chức các tỉnh Bắc Kỳ không được tiếp tay cho quân Pháp, không được tuyển lính và phu phen cho đạo quân mà họ cần đến (38).<br /><br />Một không khí chống Pháp khi âm ỉ, khi sôi sục diễn ra từ trong triều đến các tỉnh ngay sau khi vua Hàm Nghi lên ngôi tạo thành một xu thế tích cực chi phối các hoạt động triều chính làm cho các giới chức Pháp vô cùng lo ngại. Triều đình Huế gửi mua 6.000 thước xích sắt cỡ lớn từ Hồng Kông để giăng ngang ở các cửa sông nhằm chặn tàu Pháp đổ bộ bị Pháp phát hiện trên một chiếc tàu treo cờ Đức làm cho Pháp càng thêm lo lắng (39).<br /><br />Tờ báo Le Temps (Thời đại) ra ngày 26-3-1885 đã đăng một phóng sự tại Hải Phòng với một tin làm cho các giới chức Pháp quan ngại: <em>“Nhiều dư luận bí mật từ Huế làm ta có thể tiên đoán một cuộc nổi dậy của người An Nam trong tháng 4. Về mặt này tôi thấy lo lắng, vì đây là lần thứ năm hoặc thứ sáu, người ta phải tàn sát hết thảy chúng tôi rồi, kể từ khi tôi đặt chân đến Bắc Kỳ. Đúng là chúng tôi vẫn tiếp tục làm trò cười cho dân tộc này”</em> (40).<br /><br />Không chỉ phát động chống Pháp ở triều đình Huế và trên đất nước Việt Nam mà hai vị phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết còn liên kết với Cao Miên (Campuchia) để phát động cuộc chiến tranh chống Pháp rộng rãi có quy mô lớn hơn để giành lại chủ quyền, độc lập cho dân tộc. Sự việc này cũng được thể hiện trong báo cáo của Thomson, thống đốc ở Sài Gòn: <em>“Một cuộc điều tra cho sự chỉ đạo của ông Thomson ở Sài Gòn chứng minh rằng những rối loạn ở Cao Miên là do hai ông phụ chính xúi giục bọn ấy gây rối”</em> (41).<br /><br />Những hoạt động chống Pháp ở trong và ngoài nước nói trên, người Pháp chỉ quy cho vị phụ chính thứ nhất là ông Nguyễn Văn Tường, [chính ông – ct.] mới có óc tổ chức, sự khôn khéo và có nhiều cơ mưu. Họ thấy hối hận khi đã nhận ra một thực tế không thể cưỡng lại được; họ cảm thấy: <em>“nhu nhược và khôi hài trước một vị phụ chính tham lam và xảo quyệt mà ngay buổi đầu chỉ cần một tên cai và bốn lính cũng loại bỏ được cho chúng ta. Một cuộc đảo chính như thế chỉ cách đây một năm khả dĩ có thể thực hiện được, rồi đây sẽ khó khăn”</em> (42).<br /><br />Với những thông tin nói trên, rõ ràng hoạt động của phe chủ chiến không bị bó hẹp trong triều đình Huế, chỉ là cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp trong hậu trường như nhiều người từng hiểu mà là một cuộc vận động đấu tranh chống Pháp rộng lớn khắp đất nước và cả nước ngoài mà linh hồn của các hoạt động này đứng đầu là đệ nhất phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường - người mà Pháp lo ngại nhất, một trở lực nguy hiểm đối với chính sách “bảo hộ” của Pháp.<br /><br /><br /><strong>5.<br /><br />Nguyễn Văn Tường ở lại Huế sau sự kiện ngày 05-7-1885 là một sự đầu thú hay một sứ mạng khó khăn, phức tạp và nguy hiểm của triều đình Huế giao phó.</strong><br /><br />Ngày 2-7-1885, tướng De Courcy mang theo 3 tiểu đoàn lính Phi, 150 bộ binh, 2 tàu chiến. Vừa đặt chân đến Huế, De Courcy triệu tập ngay cuộc họp với các đại thần đầu triều để trao hiệp ước 1884 vừa được quốc hội Pháp thông qua, định ngày làm lễ ra mắt vua Hàm Nghi để trao quốc thư của chính phủ Pháp [và – ct.] nhân cuộc họp này để bắt Tôn Thất Thuyết.<br /><br />Biết trước âm mưu của Pháp, Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến Toà Khâm sứ để dự họp. Vì thế, việc thương thuyết với De Courcy, Nguyễn Văn Tường phải đứng ra đảm nhận.<br /><br />Cuộc thương thuyết diễn ra hết sức căng thẳng, nhất là vấn đề nghi lễ tiếp kiến với vua Hàm Nghi của De Courcy. Cả hai bên đều không nhân nhượng. De Courcy hậm hực đơn phương cắt đứt cuộc thương nghị và đòi chờ khi nào Tôn Thất Thuyết lành bệnh mới tiếp tục hội kiến.<br /><br />Qua tiếp xúc, Nguyễn Văn Tường biết rõ âm mưu của De Courcy là bắt triều đình Huế phải cung đốn tiền bạc, châu báu cho chúng. Nếu không được thoả mãn, chúng sẽ dùng võ lực để đánh chiếm mà trước hết là ngày 24 tháng năm (6-7-1885) sẽ bắt Tôn Thất Thuyết.<br /><br />Nguyễn Văn Tường đến gặp Tôn Thất Thuyết và báo cho hay:<br /><br /><em>Ba ngày thì phải đem qua<br />Không thì hai bốn đáo gia bắt ngài</em><br />(Vè Thất thủ kinh đô)<br /><br />Để bày tỏ thiện chí, Tôn Thất Thuyết quyết định tấn công quân Pháp mà không báo cho Nguyễn Văn Tường và đình thần biết, bản thân vua Hàm Nghi và tam cung (43) cũng ngỡ ngàng trước quyết định của Tôn Thất Thuyết. Do đó Nguyễn Văn Tường tiếp tục đấu tranh bằng con đường thương nghị để trì hoãn và hạn chế đụng đầu tại Huế.<br /><br />Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã bàn mưu về cuộc tấn công quân Pháp trước ngày 24 tháng năm âm lịch những để phân công Nguyễn Văn Tường ở lại thương thuyết và đảm trách công việc của triều chính tại Huế một cáh có hiệu quả, có sự trọn vẹn trong việc phân công “kẻ ở” và “người đi” sau khi kinh thành Huế thất thủ, Nguyễn Văn Tường giả vờ như không biết kế hoạch tấn công quân Pháp của Tôn Thất Thuyết. Điều này cần có thêm tư liệu chứng minh để làm sáng tỏ hơn, vì sách “Đại Nam thực lục” có ghi: <em>“Thuyết phân bổ xong, bèn ở lúc đầu canh tư (tức ngày 23) bắt đầu nổ súng ở đài Trấn Bình, tiếng kêu vang động. (Khi ấy Văn Tường ở Bộ Lại đương ngủ. Binh Bộ thự tham tri là bọn Hoàng Hữu Thường nghe tiếng súng nổ, tức thì đến gõ cửa báo Văn Tường biết. Tường dậy, sợ nói: “Nguy rồi!”, bèn vội vàng gửi tâu xin mở cửa Hiển Nhân và cửa Đại Cung, chạy vào Tả vu, nhưng không biết làm thế nào)”</em> (44).<br /><br />Nhưng nếu Tôn Thất Thuyết bàn với Nguyễn Văn Tường về cuộc tấn công này [thì – ct.] vẫn không lay chuyển được quyết tâm đánh Pháp của Tôn Thất Thuyết, mặc dù Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đều biết hậu quả sẽ bị thất bại và tang thương như thực tế đã xảy ra.<br /><br />Trước sự bức hiếp của Pháp, Tôn Thất Thuyết bị bắt không tránh khỏi thân phận làm tù binh hoặc sẽ bị giết. Cầm binh quyền trong tay, không lẽ phải bó tay. Một trận quyết tử là thượng sách của bậc anh hùng - Tôn Thất Thuyết đã lựa chọn một cách xứng đáng.<br /><br />Có ý kiến cho rằng, để khỏi lún sâu vào cuộc chiến tranh đang chuẩn bị dâng lên khắp cả nước, De Courcy đã cố tình khiêu khích Tôn Thất Thuyết - người nắm binh quyền của phe chủ chiến để ép Tôn Thất Thuyết vào thế “hành động non” để cuộc khởi nghĩa này nhanh chóng bị thất bại. Ý kiến này không đúng với mục tiêu từ đầu đến Huế của De Courcy là ổn định Bắc Kỳ và ngăn chận triều đình Huế đừng kích động và nuôi dưỡng các vụ bạo lực khác. Pháp cũng cần tồn tại một ông vua ở Huế để chúng thi hành chính sách “bảo hộ” qua hiệp ước 1884, rồi lấn lướt và khuất phục. Hậu quả của cuộc tấn công đêm 4-7-1885 quả là một bất ngờ lớn đối với Pháp.<br /><br />Việc Nguyễn Văn Tường ở lại Huế sáng ngày 5-7-1885 bị một số sử sách và dư luận cho là một sự quy hàng, là đầu thú, phản bội của Nguyễn Văn Tường. Đó là suy luận theo logic thông thường của tình huống sự kiện thất thủ kinh đô khi Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi “bôn tẩu” thì Nguyễn Văn Tường lại “đào tẩu” ra hợp tác với Pháp. Sử sách đã quy kết cho việc “ở lại” của Nguyễn Văn Tường đầu tiên là do bản cáo trạng buộc tội Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết của Đồng Khánh trong bài dụ năm 1886. Một sự luận tội nghịch đảo theo quan điểm thống trị của thực dân Pháp như sau: <em>“Tóm lại, là do tự Nguyễn Văn Tường, và Lê Thuyết [Tôn Thất Thuyết bị đổi theo họ mẹ] lộng quyền giết vua này, lập vua khác. Hàm Nghi là công tử bên ngoài, chưa từng được giáo dục trong cung. Hai quyền thần ấy lần này đón lập, nhiều việc man muội, trước thì lợi về dễ khống chế, sau chỉ mưu cho bản thân;bỗng dưng gây hấn, nghiêng đổ tôn xã, bắt hiếp vua chạy đi; Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt đem thân quay về thú tội với quan đô thống Đại Pháp, rồi đã bị tội lưu, Lê Thuyết thì sống một cách tạm bợ trong rừng. May mà nước Đại Pháp có lòng nhân thứ, giúp ta chấn hưng được nước đã mất, nối lại được thế đã đứt, nước nhà đó mới còn”</em> (45).<br /><br />Với bài dụ công bố rộng rãi này, cùng các dư luận có ác ý với Nguyễn Văn Tường nên các sử sách về sau phần lớn cho rằng Nguyễn Văn Tường đã ra đầu thú với Pháp. Nhưng sự thật không phải như những lời buộc tội nói trên. Chúng ta căn cứ vào sử liệu đương thời để làm sáng tỏ điều này.<br /><br />Theo sách “Đại Nam thực lục”, đệ ngũ kỉ, tập 36, bộ sách được biên soạn dưới triều Thành Thái (1900), 15 năm sau khi xảy ra sự kiện đánh Pháp ở kinh đô Huế. Dù có nhiều hạn chế với quan điểm bảo hoàng và lệ thuộc thực dân, nhưng các sử gia triều Nguyễn đã nói rõ về việc ở lại của Nguyễn Văn Tường là do ý chỉ của bà Từ Dũ - người quyết định cao nhất của hoạt động cung đình dưới triều Hàm Nghi - như sau: <em>“Văn Tường tâu xin vua và xa giá 3 cung đi ra Khiêm cung tạm thời lánh loạn; (khi ấy Văn Tường đã vào bên tả vu, một lát xin mở cửa Hoà Bình đến chỗ Thuyết điều khiển, nhìn trông biết là thất bại rồi, lại vào Tả vu tâu xin vua xuất hành; trong khi vội vã, chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền, văn lý mật sát và ấn kiềm, 2 quả, với hạng để vàng bạc, đồ đệ đem theo); dùng hữu quân đô thống là Hồ Văn Hiển phù xe; giờ thìn hôm ấy bắt đầu từ cửa tây nam ra. Văn Tường vâng ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại giảng hòa, tức thì đi tắt vào nhà thờ đạo Kim Long. Thuyết ra sau gặp giá, bèn một mình hộ chuyển đến Trường Thi (ở xã La Chử), nhân kèm đi ra ngoài bắc”</em> (47).<br /><br />Như vậy, Nguyễn Văn Tường ở lại là theo chỉ thị của bà Từ Dũ để làm nhiệm vụ giảng hoà, đó cũng là thế mạnh về ngoại giao của Nguyễn Văn Tường mà trong tình thế bức bách đó rất cần một người ở lại thương thuyết với Pháp để ổn định tình thế, hạn chế đổ máu, tang thương, bảo vệ cung điện, lăng miếu, xã tắc. Vai trò đó không ai có thể thay được Nguyễn Văn Tường - một con người qua thực tiễn đấu tranh đã tạo được nhiều thắng lợi trong mặt trận ngoại giao đối với Pháp.<br /><br />Trong bản tấu của Nguyễn Văn Tường gửi tam cung (lúc đó ở Quảng Trị) cũng nói rõ lí do và sứ mạng ở lại Huế của ông: <em>“Huống chi kinh thành, miếu điện, lịch đại sơn lăng, một buổi bỏ đi như không, lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn, đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy”</em> (48).<br /><br />Tiếp đó, ngày 13-7-1885, cùng lúc ban dụ Cần vương, vua Hàm Nghi đã có dụ cho Nguyễn Văn Tường, nói rõ sứ mạng khó khăn, phức tạp và đề cao phẩm chất của Nguyễn Văn Tường, bài dụ có đoạn: <em>“Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lý thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc” – TXA. ct.], phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho 2 nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này ta mệnh cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư, nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy. Nếu không như thế thì các miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ cho khanh”</em> (49).<br /><br />Cuối bài dụ, vua Hàm Nghi có ghi bút: <em>“Khanh nên nghĩ cho kỹ nhé, có muốn nên tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét cũng chẳng hại gì”</em> (50).<br /><br />Khi nhận được bài dụ này, chắc Nguyễn Văn Tường đã có bản tấu gửi đi theo đường trạm nên ngày 18-7-1885, vua Hàm Nghi lại có bài dụ cho hoàng tộc, có đoạn: <em>“Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh (51) ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định. Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất. Nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời, thế là lành lắm, tốt lắm. Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay, càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ. Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường. Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé…” </em>(52).<br /><br />Sau khi trở lại Huế, bà Từ Dũ cũng có bài dụ, có đoạn nhắc đến Nguyễn Văn Tường: <em>“Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường, tức thì đem lão cung và xe vua ra thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: ‘Lui cùng với quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân’”</em> (54).<br /><br />Rõ ràng việc Nguyễn Văn Tường ở lại Huế là một sứ mạng nguy hiểm, phức tạp được vua Hàm Nghi và thái hoàng thái hậu Từ Dũ là hai người chịu trách nhiệm tối cao của triều đình Huế hồi bấy giờ giao phó. Đó cũng là một sách lược chính trị tích cực <em>“Chia tách triều đình”</em> trong một tình thế nguy nan chưa từng có, với một hi vọng bảo tồn được kinh đô, tôn miếu, xã tắc và khôi phục chủ quyền của đất nước.<br /><br />Nguyễn Nhược thị Bích, tác giả tập “Hạnh Thục ca”, đương thời là bí thư cho bà Từ Dũ cũng viết từ câu 631 – 635:<br /><br /><em>“Thấy người trước đón lên đường<br />Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”<br />Phán rằng: “Sự đã dường này<br />Ngươi tua ở lại, ngõ rày xử phân”<br />Vâng lời Tường mới lui chân”</em><br /><br />Tác giả khuyết danh trong “Dậu tuất niên gian phong hoả kí sự” lại cho rằng, việc đánh Pháp đêm 4-7-1885 là có sự bàn bạc giữa Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, và có sự phân công giữa hai người; nếu như việc đánh Pháp không thành,<br />Nguyễn Văn Tường sẽ giả vờ đầu thú ở lại Huế làm kế hoãn binh để nuôi chí phòng xa; điều đó đã được thể hiện trong những câu thơ từ 53 đến 59 như sau:<br /><br /><em>“Thuyết – Tường sanh sự sự sanh<br />Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng<br /><strong>Cùng nhau bàn luận rứa răng<br />Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu</strong><br />Khéo làm chước nhiệm mưu sâu<br />Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình<br />Vốn là cái cớ hưỡn binh”</em><br /><br />“Đại loạn năm Ất dậu” của một tác giả khuyết danh cũng đánh giá cao kế sách “đào ngũ” của Nguyễn Văn Tường để đánh lừa De Courcy:<br /><br /><em>“Ai ngờ kia làm việc bậy quá to<br />Bỗng chốc dĩ đào vi thượng sách<br />Toàn nghe nói tưởng Tường kim thạch<br />Mà nổi cơn giận Thuyết lôi đình”</em><br /><br />Về kế hoãn binh này, Nguyễn Văn Tường ở lại như là một mục tiêu chấp nhận sự hi sinh để cản ngăn cuộc truy đuổi vua Hàm Nghi cũng được Nguyễn Văn Tường trình bày trong bức thư gửi ông nguyên soái Pháp ở Tahiti:<br /><br /><em>“Bất ngờ 2 giờ đêm hôm ấy, trong thành nghe tiếng súng. Thiểm [chức – ct.] liền phái người đến Bộ Binh, thì Tôn Thất Thuyết cùng gia quyến đã đi đâu từ bao giờ. Tức thì thiểm cùng đình thần vào nội tâu. Hoàng đế sắc: Không biết vì sao mà có tiếng súng và cũng không thấy ai tâu báo để cho ngài biết. Lúc hai bên giao chiến, điện đài sụp đổ, thế rất kinh nguy, thiểm cùng đình thần cùng hoàng thượng, Từ Dũ thái hậu, hoàng thái hậu và hoàng thái phi xin ra ngoài thành ấy cho quan hầu hộ giá lên chùa Thiên Mụ tạm trú. Còn thiểm lập tức lên giám mục Lộc (Caspar) tại nhà thờ xã Kim Long, nhờ giám mục viết thư nói với Toà [Khâm – ct.] rằng, việc ấy do Tôn Thất Thuyết làm quấy chớ thiểm và đình thần bổn quốc không có gì khác. Xin quan toàn quyền và quan khâm sứ châm chước thế nào để bảo tồn sự hoà hảo trước. Khi 7 giờ sáng, mượn người đem thơ đến Sứ quán, Thiểm ở lại nhà thờ để đợi. Vì đó là hai bên đang bắn nhau nên đến 12 giờ trưa thơ ấy mới đến Sứ quán. Đến 3 giờ chiều mới được phúc thơ của quan Khâm sứ nói rằng nên rước hoàng đế về sẽ được hoà hảo như cũ, không có ngại gì…”</em> (56) [[a]].<br /><br />Gia phả họ Nguyễn Văn Tường cũng cho biết: <em>“Lúc nửa đêm 22-5, ông Tôn Thất Thuyết không thương nghị với ông trước đêm quân lính tấn công quân Pháp. Mờ sáng quân Pháp phản công, quân ta thất trận, ông liền vào thành nội tâu với vua Hàm Nghi cùng tam cung lánh ra bên ngoài thành, lên Kim Long. Bà Từ Dũ ra lệnh cho ông phải trở về kinh điều đình với người Pháp để cho nhân dân và xã tắc được yên ổn (Việc này trong bài “Hạnh Thục ca” của Nguyễn Nhược thị có ghi rõ).<br /><br />Vâng lệnh ông trở lui và đến nhờ ông cố đạo Lộc can thiệp với nguyên soái Pháp thì được nguyên soái Pháp phúc đáp: Nếu rước vua Hàm Nghi về triều thì hai nước sẽ được hoà hảo như cũ. Ông đích thấn đến Toà Khâm thương nghị rồi lên chùa Thiên Mụ thì vua cà tam cung cũng đã được ông Tôn Thất Thuyết phò ra Quảng Trị rồi”</em> [[b]]<br /><br />Với những tư liệu minh chứng này, Nguyễn Văn Tường không những được minh oan về tội “đầu thú, quy hàng” mà vẫn được xem như một trong những nhân vật hoạt động yêu nước tích cực nhất cho đến thời điểm xảy ra cuộc tập kích quân Pháp đêm 4-7-1885 ở kinh thành Huế.<br /><br /><br /><strong>6.<br /><br />Bi kịch yêu nước của Nguyễn Văn Tường (từ ngày 5-7-1885 – 1886)</strong> [[c]].<br /><br />Cuộc đụng đầu lịch sử Việt – Pháp đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7-1885 ở kinh đô Huế đã đưa triều đình Huế và đất nước vào một vòng xoáy hiểm nguy dẫn đến sự phân hoá rã rời trong nội bộ giai cấp thống trị. Hai người cầm đầu phái chủ chiến,<br />Tôn Thất Thuyết bỏ kinh thành đưa vua Hàm Nghi ra vùng kháng chiến để có danh nghĩa “phát động Cần vương”, Nguyễn Văn Tường ở lại Huế để tiếp tục đấu tranh ngoại giao nhằm hạn chế những tổn thất sau cuộc chiến nổ ra mà kẻ địch đã hoàn toàn thắng thế. Một vua Hàm Nghi, linh hồn của cuộc đấu tranh chống Pháp đã bỏ kinh thành theo kháng chiến và một vua Đồng Khánh là anh ruột của Hàm Nghi được đưa lên ngôi để tiếp tay cho Pháp, chống lại Hàm Nghi và các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Thực dân Pháp đã nắm toàn bộ quyền điều hành triều đình Đồng Khánh.<br /><br />Nguyễn Văn Tường đã ở vào thế hiểm nghèo nhất của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi đó.<br /><br />Theo bài dụ cho Nguyễn Văn Tường ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi nói rõ:<br /><br />-- Ngươi là phụ chính đại thần ở lại mà thương đàm<br />-- Lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản<br />-- Tôn miếu, xã tắc, lăng tẩm và các vương cọng không kịp đi, hết thảy đều giao cho Nguyễn Văn Tường.<br /><br />Vua Hàm Nghi dụ cho hoàng tộc ngày 18-7-1885 cũng nhắc những nhiệm vụ trên cho Nguyễn Văn Tường.<br /><br />Như vậy, ít ra là sau gần nửa tháng khi nổ ra cuộc tấn công quân Pháp ở kinh đô Huế, Nguyễn Văn Tường vẫn giữ chức phụ chính triều đình Hàm Nghi lo việc ngoại giao với Pháp và quản lí kinh đô Huế. Với nhiệm vụ trên, Nguyễn Văn Tường đã làm được gì cho nhà Nguyễn và đất nước:<br /><br />-a- Sự ở lại Huế của Nguyễn Văn Tường sáng ngày 5-7-1885 trở thành mục tiêu thu hút sự chú ý của Pháp và đổi từ biện pháp đấu tranh vũ trang qua sách lược thương thuyết để có thời gian “trì hoãn” cho vua Hàm Nghi lên đường lánh nạn an toàn.<br /><br />-b- Cuộc chiến tạm dừng và hạn chế được sự tổn thất ở kinh đô Huế.<br /><br />-c- Ổn định tình thế, giữ được an toàn cung diện, lăng miếu, xã tắc, hoàng tộc.<br /><br />-d- Theo một số tư liệu đương thời, Nguyễn Văn Tường vẫn liên lạc với Tôn Thất Thuyết, có sự phối hợp đấu tranh giữa đàm phán và vũ trang với Pháp.<br /><br />Mặt khác, sự có mặt của Nguyễn Văn Tường ở Huế và vai trò của ông đã gây trở ngại cho công cuộc đấu tranh chống Pháp của dân tộc:<br /><br />-a- Nguyễn Văn Tường là gương mặt tích cực hoạt động trong phái chủ chiến, nhưng do không được bàn bạc và phân công với Tôn Thất Thuyết trong đêm 4-7-1885 nên ông đã không theo Tôn Thất Thuyết để phò vua Hàm Nghi tiếp tục chống Pháp đã làm phân hoá lực lượng kháng Pháp ở trong triều đình Huế. Ở lại Huế, Nguyễn Văn Tường đã theo lệnh Pháp tìm cách đón bà Từ Dũ trở về Huế, lực lượng kháng chiến lại bị suy yếu hơn, bà Từ Dũ trở thành người tiếp tay cho Pháp để chúng thực hiện các mục tiêu cai trị ở kinh đô Huế (57).<br /><br />-b- Nhiều tài liệu cho biết Nguyễn Văn Tường đã viết thư cho các địa phương đi tìm vua Hàm Nghi để rước về kinh theo yêu cầu của Pháp, mặt khác ông đã tổ chức lực lượng đuổi bắt vua Hàm Nghi và lên án Tôn Thất Thuyết (58).<br /><br />Trong thời gian 2 tháng ở Huế, Nguyễn VănTường bị kiểm soát hết sức nghiêm ngặt bởi đại uý Schmitz, sau đó là phó công sứ Hamelin, có một toán lính Pháp canh giữ. Khâm sứ De Champeaux được chỉ định làm thượng thư Bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần, Nguyễn Hữu Độ - tay sai đắc lực của Pháp được triệu về Huế sung vào Hội đồng Cơ mật. Trong hoàn cảnh bị kiểm soát và theo dõi như vậy, rõ ràng Nguyễn Văn Tường không dễ gì hoạt động cho phong trào Cần vương, cũng như thực hiện đầy đủ chi dụ của vua Hàm Nghi.<br /><br />Người Pháp đã lợi dụng uy thế của Nguyễn Văn Tường để ổn định tình hình, kêu gọi vua Hàm Nghi trở về kinh đô, Nguyễn Văn Tường trở thành một thủ pháp đặc lợi cho Pháp trong giai đoạn đầu khi chúng chiếm được kinh đô mà không có vua, không có triều đình, không còn cơ sở để chúng thực hiện chính sách bảo hộ. Còn Nguyễn Văn Tường đã quá tin vào khả năng ngoại giao của mình và sự thiện chí của Pháp, mong xoay chuyển tình thế để có lợi cho triều đình và đất nước là ảo tưởng. Khi chủ quyền không còn, đấu tranh vũ trang yếu ớt thì khả năng đàm phán sẽ không có hiệu quả. Nguyễn Văn Tường dù tài giỏi đến đâu thì cũng chỉ là bi kịch đáng thương của thời cuộc để cho kẻ thù lợi dụng mà thôi. Nguyễn Văn Tường bị quản lí ở Toà Thương bạc nhưng thực chất là thân phận của một tù nhân với nhiều kẻ thù hàng ngày phải đối mặt: thực dân Pháp, hoàng thân theo Pháp, Nguyễn Hữu Độ và các đại thần tay sai vốn có hận thù với Nguyễn Văn Tường… thì sớm muộn Nguyễn Văn Tường cũng bị giết hoặc bị án lưu đày và số phận của ông, bi kịch nhà yêu nước Nguyễn Văn Tường không vượt qua được hoàn cảnh và nghịch lí cuộc đời.<br /><br />Tác giả Phan Khoang có nêu một chi tiết: Ngày 6-7-1885, khi Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra đến Quảng Trị thì nghe tin Nguyễn Văn Tường ra đầu thú với Pháp. Trước mặt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết sai một gia nhân về Huế để đốt nhà riêng Nguyễn Văn Tường, nhà ở trong kinh thành, gần cửa Đông Ba, bị đốt ngày 24-7-1885 (59).<br /><br />Chi tiết trên chúng tôi chưa có đủ tư liệu để kiểm chứng, nhưng rõ ràng, hành động này của Tôn Thất Thuyết nếu có là không phản ánh đúng tinh thần bài dụ của vua Hàm Nghi gửi cho Nguyễn Văn Tường ngày 13-7 như đã nêu. Và quả là nhà Nguyễn Văn Tường bị đốt vào ngày 24-7-1885, khi đó Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi lên tận biên giới Việt – Lào? Nếu nhà Nguyễn Văn Tường bị đốt có thể là một đòn li gián của Pháp đối với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vì lúc đó Pháp đã kiểm soát toàn bộ kinh thành Huế, cũng có thể là do những mâu thuẫn, hận thù vốn có trước đây đối với Nguyễn Văn Tường trong nội bộ của triều đình Huế nên đã gây ra.<br /><br />Không thể đưa vua Hàm Nghi trở lại Huế, phong trào Cần vương lại nổ ra khắp nơi, gây cho Pháp nhiều khó khăn. Nguyễn Văn Tường quả là không đáp ứng được yêu cầu của Pháp, ngày 6-9-1885, đúng 2 tháng sau khi cam kết với tướng De Courcy, số phận Nguyễn Văn Tường đã bị quyết định bởi bản án bị lưu đày.<br /><br />Sách “Đại nam thực lục” ghi lại như sau:<br /><br /><em>“Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định. Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [Pháp] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy [Pháp]; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – TXA. ct.] cho hai tháng [nhằm để – TXA. ct.] lo liệu việc nước cùng Bắc Kỳ cùng được lặng yên vô sự; [kì thực – TXA. ct.] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh Tả kỳ về phía nam, có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ƯNG [:NÊN ; PHẢI – TXA. ct.] kết tội lưu”</em> (60).<br /><br />Tướng De Courcy - người quyết định số phận Nguyễn Văn Tường quả quyết cho rằng: “Ông Tường luôn luôn liên lạc với Tôn Thất Thuyết và nhúng tay vào mọi âm mưu lật đổ” (61).<br /><br />Hoạt động của Nguyễn Văn Tường còn được Puginier viết: <em>“Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng 30.000 giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng 2 tháng và hơn 1.000 người khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…”</em> (61).<br /><br />Như vậy, chúng ta hiểu được phần nào trong thời gian 2 tháng Nguyễn Văn Tường ở lại Huế và số phận của ông đã bị quyết định.<br /><br />Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Đính (74 tuổi – thân sinh của Tôn Thất Thuyết) và Phạm Thận Duật (thượng thư Bộ Hộ, Cơ mật viện đại thần, bị bắt ở Quảng Trị) đều bị kết án đày đi Côn Đảo. Khi lên tàu ra Côn Đảo, tướng De Courcy có kèm theo mật hàm gửi cho chúa đảo là Caffort với lời dặn: <em>“Tầm quan trọng chính trị của những tù nhân này đòi hỏi phải được giám sát hết sức nghiêm ngặt với bất cứ giá nào”</em> (63).<br /><br />Khi bị đi đày, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đổ thuốc độc vào miệng rụng hết cả răng (64).<br /><br />Ở Côn Lôn 6 tháng, đến tháng 2-1885, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật bị đưa lên tàu để chuyển đi đày tại đảo Tahiti (thuộc địa của Pháp ở Thái Bình dương) (65). Nguyễn Văn Tường sống 5 tháng ở Tahiti trong những nổi dằn vặt, đau đớn và cô đơn với một kì vọng không thành, ông đã trút hơi thở cuối cùng lúc 4 giờ 30 phút ngày 30 tháng 7 năm 1886 do bệnh ung thư cổ họng (66).<br /><br />Thi hài của Nguyễn Văn Tường được đặt trong một quan tài bằng kẽm để trong một hầm mộ. Ngày 9 tháng 12 năm 1886, Pháp cho chuyển thi hài ông đưa về nước. Tôn Thất Đính, người gần gũi bên ông trong năm tháng cuối đời, đã tổ chức khâm liệm lúc ông qua đời, được tháp tùng đưa thi hài Nguyễn Văn Tường về quê.<br /><br />Có tài liệu cho rằng: Khi quan tài về đến Thuận An, vua Thành Thái nói với các quan rằng: <em>“Nên đem gậy sắt đánh lên quan tài đứa phản phúc ấy”</em> (67).<br /><br />Sự việc này không đúng với sự thật lịch sử và tư liệu sưu tầm ở địa phương: Gia phả họ Nguyễn cho biết: <em>“Đinh hợi niên Pháp quốc phái binh thuyền tải quan cữu hồi quán, lăng mộ tại bổn xã Hồng Điền xứ, sổ niên hậu tái cát táng”</em> (68).<br /><br />Như vậy, Nguyễn Văn Tường mất ngày 30-7-1886 đến ngày 9-12-1886 (Bính tuất), quan tài chuyển về đến quê nhà. Còn Thành Thái, con của Dục Đức bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế bỏ, lên ngôi vua vào đầu năm 1889, hai năm sau khi thi hài Nguyễn Văn Tường được đưa về quê, như vậy giả thuyết này hoàn toàn không có căn cứ.<br /><br />Hậu duệ của Nguyễn Văn Tường ở làng An Cư cho biết: Do nghi ngờ nên vài năm sau con cháu Nguyễn Văn Tường đã tổ chức cất bốc để biết đích thực người thân ở trong quan tài. Hòm kẽm được mở ra, hài cốt Nguyễn Văn Tường vẫn còn nguyên vẹn được chuyển vào một hòm gỗ, thực hiện đúng nghi thức cải táng của gia đình. Lăng mộ Nguyễn Văn Tường ở cánh đồng xứ Hồng Điền, làng An Cư được xây dựng từ cuối thế kỉ XIX, đến nay cơ bản vẫn được bảo tồn.<br /><br />Nguyễn Văn Tường là nhân vật lớn của đất nước vào thế kỉ XIX, là đại quan đầu triều trong triều đình Huế bị kết án tù, đày qua đảo Tahiti, chết ở xứ người, rồi đưa về quê qn táng. Ông yên nghỉ ở quê nhà đã được gần 120 năm, nhưng hậu thế nhận diện về sự nghiệp của ông vẫn chưa tỏ tường, lời bình phẩm về ông đến nay vẫn chưa dứt. Bài viết này chỉ mong đóng góp một phần nhỏ hiểu biết về ông, một tài năng lớn, một nhà ngoại giao hàng đầu của nước ta dưới triều Nguyễn, sống và xây dựng sự nghiệp ở một giai đoạn chênh vênh nhất của lịch sử, ông đã vượt qua và giành những thắng lợi lớn. Nhưng cuối cùng ông lại sai lầm khi chọn điểm rơi đúng vào lúc lưới bẫy của kẻ thù đang giăng ra. Tài năng của ông, sự nghiệp của ông, bỗng chốc bị thui chột, song bản án mà kẻ thù dưới triều vua Đồng Khánh đã giành cho ông cùng những nhà yêu nước tiêu biểu khác (Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật) cũng phần nào giải toả được những gì về một tấm lòng yêu nước, thương dân mà ông đã gửi lại cho hậu thế bằng hai câu thơ “Giải triều”, trong đó có hai câu cuối phản ánh nỗi niềm của ông, về một hoài bão dở dang, một tài năng bất lực trước thời cuộc, nhưng cả cuộc đời ông vẫn một mực yêu nước, trung vua và lấy dân làm trọng.<br /><br />PGS.TS. ĐỖ BANG<br /><br />(Tập tham luận tại Hội thảo khoa học: Nhiều tác giả, <em>“Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường [1824-1886] -- Các báo cáo khoa học”</em>, Trung tâm KHXH. & NV. Huế - Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế, Tạp chí Huế Xưa & Nay tổ chức và ấn hành, 02-7-2002, tr. 20 – 41.<br /><br />In lại trong cuốn: Nhiều tác giả, “Cố đô Huế xưa và nay”, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế - Nxb. Thuận Hoá, 2005, tr. 313 - 340).<br /><br />[TXA. gõ phím vi tính : 03-03 HB7 (2007)]<br /><br /><br /><strong><em>Chú thích của PGS. TS. Đỗ Bang:</em></strong><br /><br />(1) Bản chữ Hán gồm 40 tờ (80 trang) do ông Nguyễn Thanh Đàn, 75 tuổi, nhà ở 179 Chi Lăng, Huế giữ. Bản này do chính Nguyễn Văn Tường, đời thứ 7, phụng soạn năm Giáp tuất (1874), lúc ông làm thượng thư Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần. Sau khi ông mất, cháu nội ông, đời thứ 9, là Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Văn phùng đều làm quan ở triều đình Huế tu soạn; dẫn tờ 13a.<br /><br />(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, bản dịch, tập 24, Nxb. Khoa học xã hội, 1971, tr. 164-165.<br /><br />(3) Năm này không đúng, lấy theo năm thi của “Đại Nam thực lục” là 1842.<br /><br />(4) Gia phả chi Nguyễn Văn, tờ 13b.<br /><br />(5) Là vợ của Nguyễn Văn Tộ, còn gọi là Công nữ Như Khuê, là chị của Ưng Đăng, con nuôi của vua Tự Đức, sau này lên ngôi là Kiến Phúc.<br /><br />(6) Hạo Nhiên Tôn Thất Hào, “Chiêu tuyết Kỳ Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 20-6-1996, tr. 88.<br /><br />(7) Dẫn lại Yoshiharu Tsuboi, “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1947 – 1885)”, Hội Sử học Việt Nam, bản dịch Nguyễn Đình Đầu, in lần thứ 2, 1993, tr. 291.<br /><br />(8) Nguyễn Đắc Xuân, “Hương giang cố sự”, Tủ sách Sông Hương, 1986, tr. 46.<br /><br />(9) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, đệ tam kỉ, tập 24, sđd., tr. 164.<br /><br />(10) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 32, sđd., tr. 358.<br /><br />(11) Delvaux, “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, B.A.V.H., 1916, “Những người ban cố đô Huế”, tập I, bản dịch Đặng Như tùng, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1997, tr. 36.<br /><br />(12) Lưu trữ AOM. Aix – Amiraux 12940. Dẫn lại Yoshiharu Tsuboi, sđd., tr. 292 – 293.<br /><br />(13) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 33, sđd., tr. 58.<br /><br />(14) Dẫn lại: Yoshiharu Tsuboi, sđd., tr. 293.<br /><br />(15) Dẫn lại Yoshiharu Tsuboi, sđd., tr. 294.<br /><br />(16) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 34, 1976, sđd., tr. 6.<br /><br />(17) Theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, Hồng cai sinh 5 người con trai, 7 con gái. Con trai trưởng là Ưng Thị (Thì, Kỹ, Đường), con thứ là Ưng Đăng, con thứ 5 là Ưng Lịch, sau này là vua Hàm Nghi; vì thế trong nhân gian có câu truyền như:<br /><br /><em>Một nhà sinh được ba vua<br />Vua con, vua mất, vua thua chạy dài</em><br /><br />(18) Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc, “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, Nxb. Thuận Hoá, 1995, tr. 375; “Đại Nam thực lục”, tập 35, sđd., tr. 199.<br /><br />(19) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 35, sđd., tr. 207.<br /><br />(20) Dục Đức bị giam ở Dục Đức đường, chuyển qua Viện Thái y, rồi giam ở lao phủ Thừa Thiên, bị bỏ đói chết ngày 20-10-1884.<br /><br />(21) Câu 161 – 162, tác giả là Nguyễn Nhược Thị Bích, bí thư của bà Từ Dũ.<br /><br />(22) Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc, “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, sđd., tr. 372.<br /><br />(23) Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”, sđd., Tân Việt, Sài Gòn, 1964, tr. 556.<br /><br />(24) Trần Trọng Kim, sđd., tr. 553.<br /><br />(25) Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, tái bản, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1995, tr. 9.<br /><br />(26) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 35, tr. 201.<br /><br />(27) Dẫn lại: Yoshiharu Tsuboi, sđd., tr. 295.<br /><br />(28) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 35, tr. 208.<br /><br />(29) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 35, tr. 209.<br /><br />(30) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 35, tr. 257.<br /><br />(31) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, tr. 150 - 151.<br /><br />(32) A. Delvaux, sđd., tr. 59.<br /><br />(33) Đinh Xuân Lâm, “Vai trò của sứ bộ Phạm Thận Duật trong đấu tranh cho một số điều khoản có lợi cho phong trào trào Cần vương (1885 – 1896)”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, sđd., tr. 22.<br /><br />(34) A. Delvaux, sđd., tr. 62.<br /><br />(35) A. Delvaux, sđd., tr. 62.<br /><br />(36) A. Delvaux, sđd., tr. 63.<br /><br />(37) A. Delvaux, sđd., tr. 65; Phan Khoang, “Việt Nam Pháp thuộc sử (1884-1845), Khai Trí, Sài Gòn, 1961, tr. 344.<br /><br />(38) A. Delvaux, sđd., tr. 68.<br /><br />(39), (41) A. Delvaux, sđd., tr. 65; Phan Khoang, sđd., tr. 344.<br /><br />(40) A. Delvaux, sđd., tr. 66.<br /><br />(42) A. Delvaux, sđd., tr. 70.<br /><br />(43) Tam cung là ba vị: thái hoàng thái hậu Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức), hoàng thái hậu Thuận Hiếu (vợ vua Tự Đức); bà Học phi (vợ thứ vua Tự Đức; mẹ nuôi vua Kiến Phúc).<br /><br />(44) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 220.<br /><br />(45) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 133.<br /><br />(46) Như vậy, Nguyễn Văn Tường vào nhà thờ Kim Long để tìm cơ hội thương thuyết với Pháp thì Tôn Thất Thuyết đã đón vua ra Quảng Trị trước. Do đó, không nên quy kết Nguyễn Văn Tường không [phò] xa giá đưa vua ra Quảng Trị mà ở lại Huế.<br /><br />(47) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 221.<br /><br />(48) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 224.<br /><br />(49) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 225 - 226.<br /><br />(50) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 226.<br /><br />(51) Tức Nguyễn Văn Tường.<br /><br />(52) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 227 - 228.<br /><br />(53) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 320.<br /><br />(54) In trong tập “Tinh hoa công giáo ái quốc Việt Nam” của Lam Giang, Võ Ngọc Nhã, tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 478.<br /><br />(55) “Tinh hoa công giáo ái quốc Việt Nam”, tlđd., tr. 478.<br /><br />(56) Trích trong “Lô Giang tiểu sử” của Nguyễn Văn Mại, bản dịch Nguyễn Huy Xước, bản ronéo, tr. 40, 41.<br /><br />(57) Thực ra, ngày 9-7-1885, lúc Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên Tân Sở, bà Từ Dũ đòi trở về Huế. Vua Hàm Nghi phải từ biệt tam cung rồi lên đường.<br /><br />(58) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 235; A. Delvaux, sđd., tr. 77.<br /><br />(59) Phan Khoang, sđd., tr. 353.<br /><br />(60) Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, tập 36, sđd., tr. 247.<br /><br />(61) A. Delvaux, sđd., tr. 80.<br /><br />(62) Dẫn lại: Nguyễn Văn Kiệm, “Cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục của nhà nước phong kiến Việt Nam những năm 80 của thế kỉ XIX”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, sđd., tr. 14.<br /><br />(63) “Côn Đảo, kí sự và tư liệu”, Ban Liên lạc tù chính trị, Sở Văn hoá – Thông tin Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, 1998, tr. 85.<br /><br />(64) “Côn Đảo, kí sự và tư liệu”, sđd., tr. 85.<br /><br />(65) Trên đường đi, Phạm Thận Duật bị chết, Pháp đã vứt xác xuống biển.<br /><br />(66) Bác sĩ Bùi Minh Đức trong bài viết “Một bệnh nhân tai mũi họng” đăng trên Y tế nguyệt san, bộ VIII, số 2, thánh 2-2002, tr. 15-19. Căn cứ vào các tư liệu để lại, nhất là bác sĩ đã theo dõi Nguyễn Văn Tường, tác giả cho rằng: trước và sau ngày khởi nghĩa ở kinh đô Huế, Nguyễn Văn Tường đã bị bệnh ung thư cổ họng hành hạ và ông chết sau một năm [kể từ ngày] kinh đô Huế thất thủ.<br /><br />(67) Đào Trinh Nhất, “Phan Đình Phùng” và “Việt sử giai thoại”, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 2000, tr. 57, 65.<br /><br />(68) Gia phả, sđd., tờ 13.<br /><br />(Chú thích của PGS.TS. Đỗ Bang)<br /><br /><br /><em><strong>Ghi chú của Trần Xuân An:</strong></em><br /><br />[[a]] Lá thư gửi thống đốc Tahiti trong “Lô Giang tiểu sử” là một lá thư giả do nhưng người chủ hoà bịa ra để biện minh cho họ. Chỉ độc nhất “Lô Giang tiểu sử” có chép lại lá thư này. Xin xem thêm đoạn cuối bài trích đoạn và bình chú “Chống xâm lăng” (bộ sách của GS. Trần Văn Giàu), theo link:<br /><br />Đoạn gần cuối trang web:<br /><a href="http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com">http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com</a><br /><br />Xin trích lại như sau:<br /><br />Lời người biên soạn: Trong bài viết tập trung phân tích bài thơ “Giải triều…” – Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7. 1885 –, chúng tôi đã làm sáng tỏ đoạn kết của cuộc đời Nguyễn Văn Tường. Cũng trên cơ sở các văn kiện gốc trong tư liệu chuẩn cứ là ĐNTL.CB. IV, V, VI (1847 –1888), chúng tôi sử dụng thêm các tư liệu, bài viết của Puginier [17], Delvaux, H. Le Marchant de Trigon…, đã được công bố từ 1890 đến 1917, và bài viết của Jabouille, “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885” [18] để minh chứng.<br /><br />Tất nhiên chúng tôi cũng đã phê phán luận điệu trong bài viết “Một kinh đô phù du: Tân Sở” (1914) của H. de Pirey [19] và trong hai bài viết “Pháp đánh chiếm kinh thành Huế” (1920) và “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” (1823) của Delvaux [20], là đầy thù hận, thiếu trung thực… Rất tiếc là hiện nay nhiều người, trong chừng mức nào đó, còn bị nhiễm độc từ ba bài viết vừa nêu của hai cố đạo vốn là linh mục quản hạt tại Quảng Trị này! Và, xin vô phép được nêu câu hỏi: Phải chăng GS. Trần Văn Giàu cũng phần nào bị “ảnh hưởng” các chi tiết xuyên tạc (vốn là thủ đoạn khích tướng, li gián của Pháp), bởi luận điệu của hai cố đạo ấy, mà chúng tôi đã lược bỏ? Chúng tôi cũng xin vô phép ngờ rằng các tác giả trong Đại cương lịch sử Việt Nam (toàn tập) [21] cũng ít nhiều chưa thoát khỏi “định kiến” do các bài báo của H. de Pirey, Delvaux nói trên gây ra? Thảo nào GS. Trần Văn Giàu còn gọi tên giám mục tả đạo vốn mang bản chất thực dân thâm độc, cuồng bạo Puginier là “ông”!<br /><br />Mong GS. đọc kĩ bài viết của chúng tôi một lần nữa và quan trọng nhất là kiểm chứng lại giúp tư liệu chúng tôi đã ghi rõ xuất xứ [22].<br /><br />Về hiện tượng thư từ giả, chính lá “Thư gửi thống đốc Tahiti” (trong Lô Giang tiểu sử [1927] [23]) cũng đã nói đến (thư giả trong vụ Hà Văn Quan; thư chiêu binh Trung Hoa cứu viện cho kinh đô của Nguyễn Văn Tường sau 05.7.1885). Đó là một hiện tượng không có gì lạ, ngay ở thuở bấy giờ. Chúng tôi đã trích dẫn H. Le Marchant de Trigon (thanh tra hành chính Pháp tại Đại Nam) [24] để chứng minh “Thư gửi thống đốc Tahiti” cũng là thư giả. Các tư liệu của Puginier (1890), Delvaux (1916) [25] … càng chứng minh nội dung là thư ấy là hoàn toàn bịa đặt và xuyên tạc sự thật lịch sử mà chính Lô Giang Nguyễn Văn Mại – một người càng về sau càng có khuynh hướng “hòa” hóa tất cả, rất đáng phàn nàn –, chính ông cũng không biết xuất xứ lá thư ấy ở đâu. Hơn nữa, đọc kĩ Lô Giang tiểu sử, ta thấy chính lá thư trên cũng làm đảo lộn suy nghĩ của Nguyễn Văn Mại về Nguyễn Văn Tường: từ một người lãnh tụ chủ chiến yêu nước, Nguyễn Văn Tường lại trở thành một người chủ “hòa” yêu nước!<br /><br /><em>“Sau khi đã ký hòa ước giáp thân rồi, TÔN THẤT THUYẾT không chịu qua Tòa mà thương thuyết. Vì binh quyền trong tay, thế như cỡi cọp, không thể xuống được, y muốn liều một trận. NGUYỄN VĂN TƯỜNG, ngoài mặt tuy chủ hòa, mà bề trong một lòng với THUYẾT [TXA. in đậm (iđ.)]. Vì vậy mà lập đồn TÂN SỞ, Cam Lộ… [… ]… Thế là hai bên không thể không đánh nhau được”.</em><br /><br /><em>“Trong kinh lúc ấy mới yên, mà Nam – Bắc bắt đầu khởi nghĩa. Ông NGUYỄN VĂN TƯỜNG tới Gia Định có ngâm câu tuyệt cú rằng:<br /><br /><br />Tây trư tựu trở bì do xích<br />Nam giáng li chi quả vị hoàng<br /><br />[Lợn Tây lao thớt da nên trụi<br />Măng Việt lìa cành trái chửa vàng</em><br />– theo bản dịch của Lương An –<br /><br />TXA. chua thêm (ct.)].<br /><br /><em>Về khoản kinh thành thất thủ năm Ất dậu, mới đây [khoảng 1927 – TXA. iđ. và ct.] ta được xem một bức thơ của Ông NGUYỄN VĂN TƯỜNG viết cho Ông Nguyên Soái Pháp TAHITI càng rõ hơn nữa [TXA. iđ.]”</em> [26].<br /><br />Thật ra không phải “càng rõ hơn nữa”, mà trên đường bị lưu đày, người đã ngâm hai câu tuyệt cú ấy (ám chỉ bọn Pháp xâm chiếm Huế và việc xuất bôn của vua Hàm Nghi), không thể là người viết bức “Thư gửi thống đốc Tahiti” ! Nội dung lá thư này giông giống như luận điệu của Delvaux trong 2 bài viết “Pháp đánh chiếm kinh thành Huế” [27] và “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” [28]! Tuy nhiên, ngay trong các văn bản Delvaux nhận được từ giám mục ở Tahiti, không hề có bức “Thư gửi thống đốc Tahiti” đó, và trong bài viết “Cái chết…” nêu trên, Delvaux cũng không một chữ đề cập đến bức thư ấy!<br /><br />Để phối kiểm, chúng tôi vẫn căn cứ vào tư liệu gốc [29] (chứ không phải là thứ “tư liệu vu vơ”!):<br /><br />1. Hai mật dụ của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết từ Tân Sở gửi về;<br /><br />2. Bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux;<br /><br />3. BẢN ÁN CHUNG THẨM của ngụy triều Đồng Khánh (một bên, có chữ kí của De Courcy! [30]);<br /><br />4. Dụ, cáo thị cho các tỉnh tả kì của Đồng Khánh, Hector, Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm…<br /><br />[ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 228, 247; tập 37, Nxb. KHXH., 1978, tr. 35, 138…].<br /><br />Chỉ xin nhấn mạnh: qua cáo thị trấn áp, khuyến cáo sĩ phu, nhân dân các tỉnh tả kì này của thực dân, ngụy triều, ta còn thấy rõ lòng trung thành của phong trào Cần vương đối với Nguyễn Văn Tường sau khi ông đã bị lưu đày [31]. ĐNTL.CB. còn ghi rõ Phạm Phú Lâm, Phan Liêm đã trả với giá phải vay như thế nào trong thời gian làm khâm sai ấy [32]. Và trước đó, cuộc “sát tả” đã bùng lên ở Quảng Trị vào trưa 06.9.1885, ngay sau buổi sáng Nguyễn Văn Tường bị bắt [33].<br /><br />Cũng xin đưa ra ba chi tiết sai lầm trong “Thư gửi thống đốc Tahiti”:<br /><br />1. Nếu có sự bất đồng giữa Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, thì sao lại có hai mật dụ vừa ân tình, vừa cụ thể về công việc triều chính đến thế?<br /><br />2. Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tường không nhớ mình đã bị lưu đày sau Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật (hai người này bị bắt vào Gia Định trước)?<br /><br />3. Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tường nhớ nhầm ngày không thể nhầm được là ngày Kinh Đô Quật Khởi (trong thư lại ghi là đêm 23 rạng ngày 24.5 Ất dậu, 1885, nhưng đúng sự thật lịch sử chính là đêm 22 rạng ngày 23.5 Ất dậu, 1885!)?<br /><br />Nói rõ hơn, các tư liệu đều khớp với nhau, kể cả bài thơ “Giải triều…”, chỉ ngoại trừ luận điệu của Delvaux (BAVH., 1920, 1923) và “Thư gửi thống đốc Tahiti” (không có xuất xứ trong LGTS., không giám định được bằng phương pháp thực nghiệm!). Từ sự phối kiểm đó, chúng tôi kết luận “Thư gửi thống đốc Tahiti” không phải thư thật. Để kết luận chắc chắn hơn về lá thư này, cần đọc trọn vẹn “Lô Giang tiểu sử”, ở đó, thể hiện rõ thái độ chính trị của Nguyễn Văn Mại, trong điều kiện hạn chế thời bấy giờ?<br /><br />Nói rõ ra, chúng tôi tin chắc rằng lá “Thư gửi thống đốc Tahiti” đã được bịa ra, do những người chủ “hòa”, nhằm mục đích biện minh cho chính họ: người sáng suốt, có học (như Nguyễn Văn Tường) thì không thể “sát tả” được; chỉ người nóng nảy, ít học (như Tôn Thất Thuyết) mới chủ trương “sát tả” mà thôi!<br /><br />Các thao tác phối kiểm, chúng tôi đã thể hiện rõ ở bài viết Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885, cùng các trích dẫn trực tiếp nguyên văn các bản dịch.<br /><br />Bi kịch Nguyễn Văn Tường là bi kịch của một người có tâm huyết, nhưng khi bắt đầu bước lên vũ đài chính trị thì bối cảnh lịch sử đã quá khó khăn, thất thế; khi cùng Tôn Thất Thuyết thật sự nắm lấy quyền lực bằng những hành động sáng suốt, táo bạo, thì ít nhiều cũng gây va chạm với phe bảo hoàng ngu trung, chủ “hoà”, và thực chất cũng đã quá muộn, khó bề cứu vãn tình cảnh Đất nước. Bi kịch của Nguyễn Văn Tường là bi kịch của một lãnh tụ yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo, phải đảm đương một nhiệm vụ lịch sử rất éo le, dễ gây ngộ nhận, trong kế sách vừa đánh vừa đàm, sau khi kinh đô quật khởi nhưng bị thất thủ; rồi từ đó, Đất nước hoàn toàn rơi vào tay giặc Pháp và tả đạo, trong một thời gian quá lâu (1885 – 1954; riêng ở Miền Nam, mãi đến năm 1975), đến nỗi những tuyên truyền bôi nhọ của giặc Pháp và tả đạo đã trở thành định kiến trong não trạng của vài ba thế hệ! Đó còn là bi kịch của một phụ chính đại thần có uy tín và ảnh hưởng lớn trong một giai đoạn lịch sử mà ở đó các chính kiến, hệ ý thức va chạm nhau gay gắt, với những lăng kính khác nhau (bảo hoàng ngu trung, chủ “hòa”, thân Pháp, thân tả đạo là các khuynh hướng càng về sau càng lấn lướt, thắng thế); do đó các thứ được gọi là “tư liệu” lại rất rối nhiễu, dễ gây hoang mang!<br /><br />TXA.<br /><br /><br />[[b]] Có thể gia phả họ Nguyễn Văn làng An Cư, Triệu Phước, Quảng Trị ở đoạn này cũng có chi tiết bị sai như trường hợp không chính xác mà PGS.TS. Đỗ Bang đã chỉ ra về năm Nguyễn Văn Tường bị lỗi khi thi hương hoặc về năm ông thi đỗ cử nhân. Căn cứ vào bản dụ vua Hàm Nghi gửi Nguyễn Văn Tường (tất nhiên Tôn Thất Thuyết hướng dẫn, kèm nhà vua viết), cùng ngày phát dụ Cần vương tại Tân Sở (13-7-1885) và nhiều tư liệu khác, có thể xác quyết là nhóm chủ chiến đã phân công cho nhau về nhiệm vụ “kẻ ở, người đi” trước khi nổ ra cuộc kinh đô quật khởi và vị thất thủ (05-7-1885).<br /><br /><br />[[c]] Vui lòng xem thêm:<br /><br />-- Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885) – Nv. / nc. Trần Xuân An, link:<br /><br /><a href="http://tranxuanan-writer-5.blogspot.com/2006/11/nguyn-vn-tng-1824-1886-th-vi-nt-v-con_9621.html">http://tranxuanan-writer-5.blogspot.com/2006/11/nguyn-vn-tng-1824-1886-th-vi-nt-v-con_9621.html</a><br /><br /><a href="http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com">http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com</a><br /><br /><a href="http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_b1.htm">http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_b1.htm</a><br /><br /><a href="http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm">http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm</a><br /><br />Xem bản in giấy: Cuốn “Nguyễn Văn Tường [1824 -1886], một người trung nghĩa” đã được xuất bản, Nxb. Thanh Niên, 2006; trong đó có bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885)”.<br /><br />-- Sách lược “hai mặt” của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến -- Nv. / nc. Trần Xuân An, link:<br /><br /><a href="http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_92d3v84d">http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_92d3v84d</a><br /><br />-- Về chủ nghĩa duy ý chí trong nghiên cứu lịch sử:<br /><br /><a href="http://docs.google.com/Doc?id=dc9fgpkh_1259p3zj">http://docs.google.com/Doc?id=dc9fgpkh_1259p3zj</a><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br />__________________________________<br /><br /><br /><strong>Danh mục tham luận khoa học</strong><br /><br />Danh mục tham luận khoa học (gồm 1 Lời nói đầu của Ban Tổ chức và 15 bài của 13 tác giả) trong tập "Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) -- Các báo cáo khoa học", Trung tâm KHXH. & NV. Đại học Huế, Hội KHLS. Thừa Thiên - Huế ấn hành, 02-7-2002:<br /><br />1. Nguyễn Văn Tường - cuộc đời và lời giải (báo cáo đề dẫn) – <strong>PGS.TS. Đỗ Bang</strong><br /><br />2. Tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) – <strong>Nnc. Trần Viết Ngạc</strong> (đã đưa lên web này)<br /><br />3. Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường – <strong>PGS. TS. Đỗ Bang</strong><br /><br />4. Nguyễn Văn Tường trong hai sự kiện tứ nguyệt tam vương và thất thủ kinh đô – <strong>Nnc. Trần Viết Ngạc</strong><br /><br />5. <a title="Xem: HỒ SƠ LƯU: nguyên văn BẢN 2002 - font VNI-Times, trong tập tham luận khoa học, hội thảo khoa học về NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886), TT.KHXH. & NV. thuộc ĐH. Huế, Hội KHLS. Thừa Thiên - Huế ấn hành, 02-7-2002" href="http://tranxuanan.writer.googlepages.com/ban2002_nguyen_vtnntntxtkhduoc">Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885) – <strong>Nv. / nc. Trần Xuân An</strong></a> <span style="color:#ff0000;">(*)</span><br /><br />6. Nguyễn Văn Tường trong thời gian làm Phủ doãn Thừa Thiên – <strong>Nnc. Trần Huy Thanh</strong><br /><br />7. Nguyễn Văn Tường - một nhà ngoại giao nhiệt tình nhưng bất hạnh trong gọng kềm của lịch sử - <strong>Th.S. Phan Thuận An</strong><br /><br />8. Nguyễn Văn Tường với thực dân Pháp – <strong>Nnc. Phạm Hông Việt</strong><br /><br />9. Nhìn lại cách đánh giá Nguyễn Văn Tường xưa & nay – <strong>Nnc. Huỳnh Kim Thành</strong><br /><br />10. Thêm một ý kiến về nhận diện nhân vật Nguyễn Văn Tường trong lịch sử dân tộc nửa sau thế kỉ XIX – <strong>TS. Huỳnh Thị Đảm</strong><br /><br />11.Nhìn nhận, đánh giá nhân vật Nguyễn Văn Tường – <strong>Nnc. Trần Thiều</strong><br /><br />12. Luận về chỗ đứng và sự chính danh của Nguyễn Văn Tường sau ngày thất thủ kinh đô Huế 5-7-1885 – <strong>Th.S. Nguyễn Quang Trung Tiến</strong><br /><br />13. Công - tội, vị trí của Nguyễn Văn Tường trong nhóm chủ chiến ở triều đình Huế nửa sau thế kỷ XIX – <strong>TS. Nguyễn Nhã</strong><br /><br />14. Bước đầu khảo sát một số di tích có liên quan đến phụ chính Nguyễn Văn Tường ở Huế -- <strong>Th.S. Hồ Vĩnh</strong><br /><br />15. Niên biểu Nguyễn Văn Tường – <strong>Th. S. Lê Tiến Công</strong><br /><br /><br />______________________________<br /><br /><span style="color:#ff0000;">(*)</span> Ghi chú (13-3 HB7 [2007]): Bài <em>"Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885)"</em> là bài viết được chính Trần Xuân An phát triển từ 38 trang sách vi tính (từ tr. 80 đến tr. 118), trong cuốn <em>"Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886), thơ - Vài nét về con người, tâm hồn & tư tưởng"</em> (Trần Xuân An), bản tháng 7 năm 2000. Cũng từ 38 trang trên, Trần Xuân An còn tách ra thành một bài viết khác: <em>"Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn 1883 - 1884 và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước triều đình Huế"</em>. Bài <em>"Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885)"</em> này còn được nhuận sắc thêm vài nét vào năm 2003 và đã được xuất bản với dạng sách in giấy vào năm 2006 trong cuốn <em>"Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886), một người trung nghĩa"</em> (Trần Xuân An), Nxb. Thanh Niên, 9-2006. Tất cả các bản 2000, 2002, 2003 đều đã được in vi tính vào các năm đó. Nói tóm lại, những luận điểm và tư liệu quan trọng đã được thể hiện ở bản 2000 nói trên. TXA.<br /><br /><span style="font-size:85%;"><span style="color:#ff0000;">Đưa bài viết của PGS.TS. Đỗ Bang & các ghi chú (TXA.) lên web ngày: 04-3 HB7 (2007), lúc 15 giờ 12’</span> </span><br />TXA.<br /><br /><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Ghi chú bổ sung (13-3 HB7 [2007])</span><br />TXA.TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-88427805302970514522007-03-16T21:38:00.000+07:002007-03-16T21:38:32.148+07:00BAO CHI GIOI THIEU & BINH LUAN SACH TRAN XUAN AN, 9-2006<span style="font-family:verdana;">Kính mời đọc tại địa chỉ web dưới đây:<br /><br /><a href="http://tranxuanan-baochibinhluan.blogspot.com">http://tranxuanan-baochibinhluan.blogspot.com</a></span><br /><span style="font-family:verdana;"><br />hoặc (nếu khó truy cập link trên, vì biển nền [template] hơi nặng):<br /><br /><a href="http://tranxuanan-baochibinhluan-b.blogspot.com">http://tranxuanan-baochibinhluan-b.blogspot.com</a></span><br /><span style="font-family:Verdana;"></span><br /><span style="font-family:Verdana;">Có thể chỉ đọc thông tin</span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#ff0000;">ÔNG CAO QUẢNG VĂN & </span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#ff0000;">TẠP CHÍ KIẾN THỨC NGÀY NAY (số 597, 10-3-2007, tr. 64)</span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#ff0000;">ĐÃ ĐÍNH CHÍNH:</span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#ff0000;"></span><br /><a href="http://docs.google.com/Doc?id=dc9fgpkh_1259p3zj"><span style="font-family:verdana;color:#3333ff;">http://docs.google.com/Doc?id=dc9fgpkh_1259p3zj</span></a><br /><span style="font-family:verdana;"><br /></span><br /><span style="font-family:verdana;">Trân trọng,<br />Trần Xuân An<br />16 giờ 04', 12-3 HB7 (2007)<br />[24 tháng giêng Đinh hợi HB7)</span><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;"><strong>HỒ SƠ LƯU:</strong></span><br /><br /><a href="http://tranxuanan.writer.googlepages.com/ban2002_nguyen_vtnntntxtkhduoc">NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (5-7-1885) & các bài khác -- <strong>Bản gốc / Font VNI-Times</strong></a></span><br /><span style="font-family:Verdana;"></span><br /><span style="font-family:Verdana;">Cũng có thể bấm vào 2 link dưới đây:</span><br /><span style="font-family:Verdana;"></span><br /><a href="http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/NVT-trungnghia_VNI-Times.htm"><span style="font-family:verdana;color:#3333ff;">http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/NVT-trungnghia_VNI-Times.htm</span></a><span style="color:#3333ff;"><br /></span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#3333ff;"><a href="http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/NVT-trungnghia_VNI-Times-2.htm">http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/NVT-trungnghia_VNI-Times-2.htm</a></span><br /><p><span style="font-family:Verdana;"></span></p><span style="font-family:Verdana;"></span><br /><span style="font-family:Verdana;"></span><br /><span style="font-family:Verdana;">16 giờ 38', ngày 16-3 HB7 (2007)</span><br />TXA.TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-36079613712004594162007-03-13T17:26:00.000+07:002007-03-13T17:26:13.332+07:00MỘT SỐ HÌNH ẢNH TƯ LIỆU HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886) ...<span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">MỘT SỐ HÌNH ẢNH TƯ LIỆU HỘI THẢO KHOA HỌC </span></span><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886)</span> </span><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">& VỀ LỄ TƯỞNG NIỆM <em>NGÀY KINH ĐÔ QUẬT KHỞI - THẤT THỦ</em> </span></span><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">Ở HUẾ<br /></span><br />(Tiếp theo tệp hình ảnh 1 trên trang web này)<br /><br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOkbzvaMpZBnOtRHwThl_DYBqM9ChnEOFx_Z6GEM9l-cVATZt9-ybdTjHNTEA4jgCnAAMZOBdDjHlMfiE1fLb-sACs5FW_79cdbv0AdMyjMijKV2X5ZTfY0cH8GUMqN7eNIx83b1a_DSzV/s1600-h/htkh-nvt-18-cooanh.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039030263323614306" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOkbzvaMpZBnOtRHwThl_DYBqM9ChnEOFx_Z6GEM9l-cVATZt9-ybdTjHNTEA4jgCnAAMZOBdDjHlMfiE1fLb-sACs5FW_79cdbv0AdMyjMijKV2X5ZTfY0cH8GUMqN7eNIx83b1a_DSzV/s320/htkh-nvt-18-cooanh.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh đang thuyết minh hình ảnh trực quan<br />(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgalpJYgdnk71ptFo34-oa2LHBng4uHIpZ6JGQH2nwhtGwkcaIcOBljmynG_-M7hP-oki4rp4EjWxVvt1sJahIfWsq6vwKymTFsVDFp0OiB8OHlXDdWZgeXNeSrzXetTnkUjURA18BjgNLV/s1600-h/htkh-nvt-17-van-oanh.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039029704977865810" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgalpJYgdnk71ptFo34-oa2LHBng4uHIpZ6JGQH2nwhtGwkcaIcOBljmynG_-M7hP-oki4rp4EjWxVvt1sJahIfWsq6vwKymTFsVDFp0OiB8OHlXDdWZgeXNeSrzXetTnkUjURA18BjgNLV/s320/htkh-nvt-17-van-oanh.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh và cô Trần Nguyễn Từ Vân </span><br /><span style="font-family:verdana;">đang báo cáo hình ảnh trực quan<br />(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEicyhQXDhzBSMhkCl9Y-EzMXWmMLNVM-LeuRVYi6Jfzo8cE-6mNx4sgQjZZh3SaVxUuGSNV1Bp8vduTNDXPqc8FwUdRyO_SpAx2NeuORQJd0stiG5u5_aig3rrCgNZT3MClSgnWnixap1Sp/s1600-h/htkh-nvt-16-htdam-nhcphan.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039029215351594050" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEicyhQXDhzBSMhkCl9Y-EzMXWmMLNVM-LeuRVYi6Jfzo8cE-6mNx4sgQjZZh3SaVxUuGSNV1Bp8vduTNDXPqc8FwUdRyO_SpAx2NeuORQJd0stiG5u5_aig3rrCgNZT3MClSgnWnixap1Sp/s320/htkh-nvt-16-htdam-nhcphan.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">TS. Nguyễn Thị Đảm (cầm micro), </span><br /><span style="font-family:verdana;">Nnc. Nguyễn Hữu Châu Phan (bên phải, mang kính), </span><br /><span style="font-family:verdana;">Th.S. Hồ Vĩnh (bên phải, vòng tay) </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyHj4FiSyRFb7GZZDvnTSqoZ1qRnhG98YDy-8UIGs3z-reMpCxh3NcHJOUXDK6HD97NaJGlnCFbmAzsoe61NR8zeoat1qAkUaQjL5EoyjI2cLJDg-fJK3JV9-awoTHer3jJBUSEbjNqZWu/s1600-h/htkh-nvt-15-dtquoc.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039028639825976370" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyHj4FiSyRFb7GZZDvnTSqoZ1qRnhG98YDy-8UIGs3z-reMpCxh3NcHJOUXDK6HD97NaJGlnCFbmAzsoe61NR8zeoat1qAkUaQjL5EoyjI2cLJDg-fJK3JV9-awoTHer3jJBUSEbjNqZWu/s320/htkh-nvt-15-dtquoc.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Nhà sử học Dương Trung Quốc sau bục diễn giả </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiw4K0hchsFG8FOnuie2HPTK5e8Nkj1rlmqJoQq8C2-1tQ0KecIhuAunZnd1wEEAROk2RxNtezZTYmt7E_NIaCDoHIVJ7gxQftB5-C8JhFoVfD2zX3MCPu_jKH8a2fS9A1jzeSCJMXPJNL-/s1600-h/htkh-nvt-14-ndxuan.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039028072890293282" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiw4K0hchsFG8FOnuie2HPTK5e8Nkj1rlmqJoQq8C2-1tQ0KecIhuAunZnd1wEEAROk2RxNtezZTYmt7E_NIaCDoHIVJ7gxQftB5-C8JhFoVfD2zX3MCPu_jKH8a2fS9A1jzeSCJMXPJNL-/s320/htkh-nvt-14-ndxuan.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Nnc. Nguyễn Đắc Xuân (nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgzyikuwV09JYY4eaASoeKLR2_W4LtfdyGFV20uagFFtPVYU1AJFwtOqNohAVzxw2mHcxum2NAP0XsMHVzRdpKPILrDY9cseK7BzcJ0BYpHs_aqw4dOUKYwsLuhevPZwoHzhOuVa99nnbBX/s1600-h/htkh-nvt-13-vinh-xuan-ngac.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039027153767291922" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgzyikuwV09JYY4eaASoeKLR2_W4LtfdyGFV20uagFFtPVYU1AJFwtOqNohAVzxw2mHcxum2NAP0XsMHVzRdpKPILrDY9cseK7BzcJ0BYpHs_aqw4dOUKYwsLuhevPZwoHzhOuVa99nnbBX/s320/htkh-nvt-13-vinh-xuan-ngac.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Hàng ghế đầu, từ trái sang: </span><br /><span style="font-family:verdana;">Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, </span><br /><span style="font-family:verdana;">một nhà nghiên cứu (áo sơ-mi sọc), </span><br /><span style="font-family:verdana;">Nnc. Nguyễn Đắc Xuân (tóc bạc), Nnc. Trần Viết Ngạc<br />(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNJjnDGVRA0xvLdbKHWHlebQw16IrIIMOANWPVfTS9PolH3fsC09fuHEohJWwbSupTnUjVxUupanNkoAkwHs3cohqDo66EIeqyyb_9g1wyeR3iqVoimCqDr1QmA9pudOETfhRz_TijEj-A/s1600-h/htkh-nvt-12-nnha.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039026483752393730" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNJjnDGVRA0xvLdbKHWHlebQw16IrIIMOANWPVfTS9PolH3fsC09fuHEohJWwbSupTnUjVxUupanNkoAkwHs3cohqDo66EIeqyyb_9g1wyeR3iqVoimCqDr1QmA9pudOETfhRz_TijEj-A/s320/htkh-nvt-12-nnha.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">TS. Nguyễn Nhã (người đứng), </span><br /><span style="font-family:verdana;">TS. Đào Hùng (người ngồi, một tay đặt vào cằm, cùng hàng)</span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjAu6TeevqCBHeoglFr5mj_ifyl9jgINPNje8Uj474pt3vRw05i-LHEElzMoax4RrBIsz-wvbo30bAJBfgRlkRZ4X7O7vnEm4gL7rywwZIIckwdEWF9sYZBiTMFpyYI-EjTGDqFvzPm0FJE/s1600-h/htkh-nvt-11-tdvinh.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039025925406645234" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjAu6TeevqCBHeoglFr5mj_ifyl9jgINPNje8Uj474pt3vRw05i-LHEElzMoax4RrBIsz-wvbo30bAJBfgRlkRZ4X7O7vnEm4gL7rywwZIIckwdEWF9sYZBiTMFpyYI-EjTGDqFvzPm0FJE/s320/htkh-nvt-11-tdvinh.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Hàng ghế đầu, người thứ nhất:</span><br /><span style="font-family:verdana;">Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg4RiUl3npYC4tzWq1SV38l0Eo4XzPzeAOmyq96VbUuzHTxuQrnOGpFPdCSpwviF1g2pI2jJOLwS4hprwKUjA3T6ihBlIrUllWBDpOTOnlq-IqSa0Ln-PAdYmrv5iVgZB-lGJ9FeZ6RbMHU/s1600-h/htkh-nvt-10-m-am-hon-3-blichsu.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039025375650831330" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg4RiUl3npYC4tzWq1SV38l0Eo4XzPzeAOmyq96VbUuzHTxuQrnOGpFPdCSpwviF1g2pI2jJOLwS4hprwKUjA3T6ihBlIrUllWBDpOTOnlq-IqSa0Ln-PAdYmrv5iVgZB-lGJ9FeZ6RbMHU/s320/htkh-nvt-10-m-am-hon-3-blichsu.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Đài tưởng niệm dựng trước Miếu Âm Hồn </span><br /><span style="font-family:verdana;">(mah_h.3) (nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcdCvOaGS1synq1qjsrFMw6aHfMw2rL0B1KbKVQSAzMT4h1kgiJ3YOM3_1Had83Jg8Yksh9FPtn91WxfUEU2u-5x2VGkyD7iWCkTWqDWc1ntwG9nPSvC7Q80IlsfAzztAYkiED6ln0AXrI/s1600-h/htkh-nvt-9.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039024744290638802" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcdCvOaGS1synq1qjsrFMw6aHfMw2rL0B1KbKVQSAzMT4h1kgiJ3YOM3_1Had83Jg8Yksh9FPtn91WxfUEU2u-5x2VGkyD7iWCkTWqDWc1ntwG9nPSvC7Q80IlsfAzztAYkiED6ln0AXrI/s320/htkh-nvt-9.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Một nhà nghiên cứu đang phát biểu</span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">GHI CHÚ:</span><br />Vì sơ suất, người trang trí hội trường cắt dán nhầm một chữ số trong niên kỉ Nguyễn Văn Tường: 1824 - 18<span style="color:#ff6600;">6</span>6. Đến buổi chiều cùng ngày, sơ suất ấy đã được sửa chữa lại: 1824 - 1886.<br /><br /><span style="color:#ff0000;">NHẮN TIN:</span><br />Trong ngày hội thảo tại Huế, 02-7 HB2 (2002), tôi mải nghe báo cáo khoa học, thảo luận và chụp ảnh hội nghị, quên nhờ người khác chụp ảnh mình; và cũng vì thấy có nhiều nhà báo, các nhà nghiên cứu, những người bà con chụp ảnh tôi, tôi thầm nghĩ, sẽ liên lạc để xin sau, khỏi làm phiền lúc ấy. Do chủ quan như vậy, nên đến nay, tôi không có tấm ảnh nào có hình tôi trong hội thảo để kỉ niệm. Quý vị nào có, xin vui lòng gửi cho một tấm (ảnh scan hoặc ảnh sang từ phim / ảnh gốc), theo địa chỉ:<br />-- <span style="color:#3333ff;">tranxuanan_vn@yahoo.com</span><br />-- <span style="color:#3333ff;">tranxuanan.writer@gmail.com</span><br />-- <span style="color:#cc33cc;">71B Phạm Văn Hai<br />(cửa hiệu Phan Huyên)<br />Phường 3, Tân Bình<br />TP. Hồ Chí Minh<br />Việt Nam</span><br />Thành thật cảm ơn trước.<br />Trân trọng.<br />Trần Xuân An<br /><br /><br /><br /><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Quét chụp (scan) tại 377 Lê Văn Sĩ, P.2, Tân Bình, TP.HCM.<br />07-3 HB7 (2007) </span></span><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Đưa lên web: khoảng 10 giờ & 17 giờ 04, cùng ngày.<br />TXA.</span> </span>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-45883227701025007342007-03-13T17:23:00.000+07:002007-03-13T17:23:32.748+07:00MỘT SỐ HÌNH ẢNH TƯ LIỆU HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886) ...<span style="font-family:verdana;color:#ff0000;">MỘT SỐ HÌNH ẢNH TƯ LIỆU HỘI THẢO KHOA HỌC </span><br /><span style="font-family:verdana;color:#ff0000;">VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886)</span><br /><span style="font-family:Verdana;color:#ff0000;">& VỀ LỄ TƯỞNG NIỆM <em>NGÀY KINH ĐÔ QUẬT KHỞI - THẤT THỦ</em></span><br /><span style="font-family:verdana;color:#ff0000;">Ở HUẾ</span><br /><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglNshVyGpePswVWyx68m7eMAow3WftWUZAGtczAR_4q9pCMgXzKBaqh85psS0FazKu7S-dlB7Kb2pjqeB-TLOKr20DEzqHvufe2ZOPrsXXTBtDnVbExyUXJce0jmP-XbinmQw2rMTM7lE7/s1600-h/htkh-nvt-3-m-amhon-1-dai.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039010497884117874" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglNshVyGpePswVWyx68m7eMAow3WftWUZAGtczAR_4q9pCMgXzKBaqh85psS0FazKu7S-dlB7Kb2pjqeB-TLOKr20DEzqHvufe2ZOPrsXXTBtDnVbExyUXJce0jmP-XbinmQw2rMTM7lE7/s320/htkh-nvt-3-m-amhon-1-dai.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Đài tưởng niệm dựng trước Miếu Âm Hồn (mah_h.1), ở ngã tư </span><br /><span style="font-family:verdana;">Lê Thánh Tôn (Nguyễn Hiệu / cũ ) -- Mai Thúc Loan, TP. Huế, </span><br /><span style="font-family:verdana;">nơi tưởng niệm cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ 05-7-1885 </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwgIds69cIGu4ujT-YKm7Veg7HzpAiznwhn8w0DTnBQvSBQqsPVzn2NMe6hiQLEq_Z2CeNhxxllS6b4TGDRy6nF5_Djpvhu1ovHtuvQKTRmGCbT7xKiTWeUE9rfjjM8Um9HmCjHqWb8kY1/s1600-h/htkh-nvt-7-phviet.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039012714087242674" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhwgIds69cIGu4ujT-YKm7Veg7HzpAiznwhn8w0DTnBQvSBQqsPVzn2NMe6hiQLEq_Z2CeNhxxllS6b4TGDRy6nF5_Djpvhu1ovHtuvQKTRmGCbT7xKiTWeUE9rfjjM8Um9HmCjHqWb8kY1/s320/htkh-nvt-7-phviet.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Nhà nghiên cứu Phạm Hồng Việt </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiwzvKRXO9RdzBwjDO-AMo8MMMghFa8rY7BiWDLLyb0giWvMWJoraKOaqfVix8ALqjkOdrK7dDoHG6TQ2qKWeQkx4nZ-qWz3PeVECRUgs3gpGB4Q1WEcBUaCL1jA3_hR2pSBtEV5diPQr6O/s1600-h/htkh-nvt-6.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039012190101232546" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiwzvKRXO9RdzBwjDO-AMo8MMMghFa8rY7BiWDLLyb0giWvMWJoraKOaqfVix8ALqjkOdrK7dDoHG6TQ2qKWeQkx4nZ-qWz3PeVECRUgs3gpGB4Q1WEcBUaCL1jA3_hR2pSBtEV5diPQr6O/s320/htkh-nvt-6.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Một nhà nghiên cứu đang phát biểu </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhDvqQsJBWWsStKpnP5tkUjYZKQCymMRLdyT-FExYRHz50npvJMbj2uOHORDOfpBo8KDhbWCgfRRKpeNtjzEvuwQCw3u8Cdim0-F4SBtebuHoDZR8sE7r2XeszawC-qPhTFV_QHqTTox7wD/s1600-h/htkh-nvt-5-nqttien.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039011593100778386" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhDvqQsJBWWsStKpnP5tkUjYZKQCymMRLdyT-FExYRHz50npvJMbj2uOHORDOfpBo8KDhbWCgfRRKpeNtjzEvuwQCw3u8Cdim0-F4SBtebuHoDZR8sE7r2XeszawC-qPhTFV_QHqTTox7wD/s320/htkh-nvt-5-nqttien.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Thạc sĩ Nguyễn Quang Trung Tiến </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh4MVzC5qo0l1_7vjOm72gKNqRTENWLRvDLUOttOInVxnXGEji2Shss5EuAuNLzFQ0KVXrcZyhSMNRXGzJjo1glBjQVkosApmLJ7fpkGbdbx89M5R2PrCu6mDPoB7o0L5_lS9iBW3YywZC4/s1600-h/htkh-nvt-4-dbang-to.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039011099179539330" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh4MVzC5qo0l1_7vjOm72gKNqRTENWLRvDLUOttOInVxnXGEji2Shss5EuAuNLzFQ0KVXrcZyhSMNRXGzJjo1glBjQVkosApmLJ7fpkGbdbx89M5R2PrCu6mDPoB7o0L5_lS9iBW3YywZC4/s320/htkh-nvt-4-dbang-to.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">PGS.TS. Đỗ Bang đang báo cáo khoa học </span><br /><span style="font-family:verdana;">(db_h.1) </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /><br /></span><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfOFZzBka3ooBBId6kH-OXNRnhNt1G1Ve4YwczP_urKd1iyQh9otIlu2GdpQNgQ5kdBLjAfq8LAb5K74Y81SldM4oYlXI1zmA-Of1dQFThaYuriDEnWIDjAh0O3tEmxRzCNdNJ1N4eZmCL/s1600-h/htkh-nvt-8m-amhon-2-tkinh.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039013229483318210" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfOFZzBka3ooBBId6kH-OXNRnhNt1G1Ve4YwczP_urKd1iyQh9otIlu2GdpQNgQ5kdBLjAfq8LAb5K74Y81SldM4oYlXI1zmA-Of1dQFThaYuriDEnWIDjAh0O3tEmxRzCNdNJ1N4eZmCL/s320/htkh-nvt-8m-amhon-2-tkinh.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Miếu Âm Hồn </span><br /><span style="font-family:verdana;">(mah_h.2) </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)<br /></span><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhgDX2lRsPdI1JRCxrbLoZXw9lhJJwXGvQnNP-PapYYCs93u0T8OLldronvVjRBnNfEvuwzpYI6GRIkyTXaobkAoJDMxr6tudgSpfmIn-2caqrS1lxD0fA0v2vHdkoR-Ir9MG-15E4GByyi/s1600-h/htkh-nvt-2-dbang-nho.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039009814984317794" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhgDX2lRsPdI1JRCxrbLoZXw9lhJJwXGvQnNP-PapYYCs93u0T8OLldronvVjRBnNfEvuwzpYI6GRIkyTXaobkAoJDMxr6tudgSpfmIn-2caqrS1lxD0fA0v2vHdkoR-Ir9MG-15E4GByyi/s320/htkh-nvt-2-dbang-nho.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">PGS.TS. Đỗ Bang đang báo cáo khoa học, sau bục diễn giả </span><br /><span style="font-family:verdana;">(db_h.2) </span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5YxcP8k8b7ZT5pU7JS_e8AxKXRzgeAb5bMd54lfiOWz66hOuZoCu5_RGgpM_vMdzx_xpiDx3lp3xD7Wv2nKZybGXBZB-wJhWCNlBLxIWytH-gQ2b10HmJ9pFRBpo1ZbPApbfWvnNYsxfs/s1600-h/htkh-nvt-1-hvinh.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5039009226573798226" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5YxcP8k8b7ZT5pU7JS_e8AxKXRzgeAb5bMd54lfiOWz66hOuZoCu5_RGgpM_vMdzx_xpiDx3lp3xD7Wv2nKZybGXBZB-wJhWCNlBLxIWytH-gQ2b10HmJ9pFRBpo1ZbPApbfWvnNYsxfs/s320/htkh-nvt-1-hvinh.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Thạc sĩ Hồ Vĩnh (người đứng),</span><br /><span style="font-family:Verdana;">Thạc sĩ Phan Thuận An (người ngồi, đang đọc)</span><br /><span style="font-family:verdana;">(nhiếp ảnh: Trần Xuân An)</span><br /><br /><a href="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/1600/ZZZ_NguyenThuongHien.jpg"><img style="MARGIN: 0px 10px 10px 0px; CURSOR: hand" alt="" src="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/320/ZZZ_NguyenThuongHien.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Chân dung<br />NGUYỄN THƯỢNG HIỀN (1868 -1925) :</span><br /><span style="font-family:verdana;color:#cc33cc;"><em>"Không quá Tây môn, bi thái phó"</em></span><br /><span style="font-family:verdana;"><em><span style="color:#cc33cc;">Cái hư không vượt cửa Tây, thương tiếc thái phó [Nguyễn Văn Tường]<br /></span></em>(Nguồn ảnh: Website Trường PTTH. Nguyễn Thượng Hiền, Tân Bình, TP.HCM.)</span><br /><br /><a href="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/1600/Biasach_HoiNghi_HUE-HB2.jpg"><img style="MARGIN: 0px 10px 10px 0px; CURSOR: hand" alt="" src="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/320/Biasach_HoiNghi_HUE-HB2.jpg" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Bìa sách <em>"Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) - Các báo cáo khoa học"</em>.<br />(Nguồn: TXA.)<br /><br /></span><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Xem tiếp tệp ảnh 2 cùng chủ đề trên trang web này.</span><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">GHI CHÚ:</span><br />Vì sơ suất, người trang trí hội trường cắt dán nhầm một chữ số trong niên kỉ Nguyễn Văn Tường: 1824 - 1866. Đến buổi chiều cùng ngày, sơ suất ấy đã được sửa chữa lại: 1824 - 1886.<br /></span><br /><br /><br /><br /><p><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#ff0000;">NHẮN TIN:</span><br />Trong ngày hội thảo tại Huế, 02-7 HB2 (2002), tôi mải nghe báo cáo khoa học, thảo luận và chụp ảnh hội nghị, quên nhờ người khác chụp ảnh mình; và cũng vì thấy có nhiều nhà báo, các nhà nghiên cứu, những người bà con chụp ảnh tôi, tôi thầm nghĩ, sẽ liên lạc để xin sau, khỏi làm phiền lúc ấy. Do chủ quan như vậy, nên đến nay, tôi không có tấm ảnh nào có hình tôi trong hội thảo để kỉ niệm. Quý vị nào có, xin vui lòng gửi cho một tấm (ảnh scan hoặc ảnh sang ra từ phim / ảnh gốc), theo địa chỉ:<br />-- <span style="color:#3333ff;">tranxuanan_vn@yahoo.com</span><br />-- <span style="color:#3333ff;">tranxuanan.writer@gmail.com</span><br />-- <span style="color:#cc33cc;">71B Phạm Văn Hai<br />(cửa hiệu Phan Huyên)<br />Phường 3, Tân Bình<br />TP. Hồ Chí Minh<br />Việt Nam</span><br />Thành thật cảm ơn trước.<br />Trân trọng.<br />Trần Xuân An</span></p><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;font-size:85%;color:#ff0000;">Quét chụp (scan) tại 377 Lê Văn Sĩ, P.2, Tân Bình, TP.HCM.<br />07-3 HB7 (2007)</span><br /><span style="font-family:verdana;font-size:85%;color:#ff0000;">Đưa lên web: khoảng 10 giờ & 17 giờ 12', cùng ngày.</span><br /><span style="font-family:Verdana;font-size:85%;color:#ff0000;">TXA.</span>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-45155180432438481752007-03-13T13:54:00.000+07:002007-03-13T13:54:41.113+07:00Hinh anh 4 trang KIEN THUC NGAY NAY, so 591 & 597<span style="font-family:verdana;color:#ff0000;">ÔNG CAO QUẢNG VĂN<br />& TẠP CHÍ KIẾN THỨC NGÀY NAY<br />ĐÃ ĐÍNH CHÍNH<br /></span><br /><span style="font-family:verdana;color:#ff0000;">(KTNN., số 591 [10-01-07] & 597 [10-3-07])<br /></span><span style="font-family:verdana;color:#ff0000;"></span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhMQekxPZPMNdtE-17Z0N4_UVT8p89dhzhBShX5e3mwK-jwDOIn4jiTB8Ply4kMlozUgqCo3KE-g9CrwChdaxsPtdShXuoI_2UVMSVn4pKS_gvceuT2ghSvoxy95ujyoqDyrLF6-nYuLqJ3/s1600-h/ktnn-cqv-1_b.JPG"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5040989773016061458" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhMQekxPZPMNdtE-17Z0N4_UVT8p89dhzhBShX5e3mwK-jwDOIn4jiTB8Ply4kMlozUgqCo3KE-g9CrwChdaxsPtdShXuoI_2UVMSVn4pKS_gvceuT2ghSvoxy95ujyoqDyrLF6-nYuLqJ3/s320/ktnn-cqv-1_b.JPG" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;color:#990000;"><em>(Bấm vào ảnh, để xem ảnh được phóng lớn)</em></span><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjACmqI0_LVkil6A6bW7KY_S7gIBcFawmMVT9ce1gf80hb_aWedIUHx79_j0MzUxHTHiOvIsa-rK1a3fSUzEHv5tZUi4r6yGVcsqTKieKYCJQT5rTs58ak7TF1PhWSgEydjihZDkpzZerlP/s1600-h/ktnn-cqv-2_b.JPG"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5040990108023510562" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjACmqI0_LVkil6A6bW7KY_S7gIBcFawmMVT9ce1gf80hb_aWedIUHx79_j0MzUxHTHiOvIsa-rK1a3fSUzEHv5tZUi4r6yGVcsqTKieKYCJQT5rTs58ak7TF1PhWSgEydjihZDkpzZerlP/s320/ktnn-cqv-2_b.JPG" border="0" /></a><br /><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFDjwb6XDyeQyt0OJk80PzQ86IdO9ilDN9E7kuVNiypgiTEKbRn-6Od6aduLULhTSkG7xY0-OmVnyeQKPWgGO_3iQdFUDg_LGMd3k3NQeneSjvnkwFDidxdtqg-_9AOBNremc7DkvNkEOV/s1600-h/ktnn-cqv-3_b.JPG"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5040990361426581042" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFDjwb6XDyeQyt0OJk80PzQ86IdO9ilDN9E7kuVNiypgiTEKbRn-6Od6aduLULhTSkG7xY0-OmVnyeQKPWgGO_3iQdFUDg_LGMd3k3NQeneSjvnkwFDidxdtqg-_9AOBNremc7DkvNkEOV/s320/ktnn-cqv-3_b.JPG" border="0" /></a><br /><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhyYVDRRQyyz_gVxLDpiW313oC3KBz_GM27hilrm9PSR0A3-dLrXvCI9Nlef9vcg50M2f-1ZtSPqwaHKemXQzvfhBbdR8h_fb3tJ2LBJDMCVzvdhYEXRQCI0mP74oVe24IeP00bDDZBbbYd/s1600-h/ktnn-cqv-4_b.JPG"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5040990524635338306" style="CURSOR: hand" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhyYVDRRQyyz_gVxLDpiW313oC3KBz_GM27hilrm9PSR0A3-dLrXvCI9Nlef9vcg50M2f-1ZtSPqwaHKemXQzvfhBbdR8h_fb3tJ2LBJDMCVzvdhYEXRQCI0mP74oVe24IeP00bDDZBbbYd/s320/ktnn-cqv-4_b.JPG" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-family:verdana;"><em>Dưới khung đính chính </em></span><br /><span style="font-family:verdana;"><em>còn có nửa trang chữ </em></span><br /><span style="font-family:verdana;"><em>thuộc một bài báo khác</em> </span><br /><p><span style="font-family:verdana;"></span></p><p><span style="font-family:verdana;">Xem:</span><span style="font-family:verdana;"></p></span><a href="http://tranxuanan-writer-1.blogspot.com/2007/03/bao-chi-gioi-thieu-binh-luan-sach-tran.html">http://tranxuanan-writer-1.blogspot.com<br />/2007/03/bao-chi-gioi-thieu-binh-luan-sach-tran.html</a><br /><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;">Trân trọng,<br />Trần Xuân An<br />12-3 HB7 (2007)<br /><br /><span style="font-size:85%;color:#ff0000;">Quét chụp (scan) tại:<br />377 Lê Văn Sĩ, phường 2, quận Tân Bình<br />TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam</span> </span><br /></span>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-5752012755857081052007-03-08T08:20:00.000+07:002007-03-08T08:20:08.543+07:00Tham khao: MOT SO BAI VIET TU SACH & THAM LUAN KHOA HOC VE NGUYEN VAN TUONG<strong><br /><span style="font-family:verdana;">Tham khảo:<br />MỘT SỐ BÀI VIẾT TỪ CÁC CUỐN SÁCH<br />& THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC<br />VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tại Huế, 02-7-2002)</span></strong><span style="font-family:verdana;"><br /><br /></span><span style="font-family:verdana;"><em>Vì mục đích thuần tuý sử học, tiện cho người đọc, nhất là các sinh viên khoa sử tham khảo, xin trân trọng gõ phím vi tính lại những bài sau đây, đồng thời tôi (TXA.) có viết thêm đôi lời bình chú với dạng ghi chú cuối mỗi bài, nếu cần thiết:<br /><br />I. Từ sách: Nguyễn Thế Long, <em>“Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam”</em>, tập 2, Nxb. Giáo Dục, 9-2005.<br /><br />II. Từ tập <em>"Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) -- Các báo cáo khoa học"</em>, Trung tâm KHXH. & NV. Đại học Huế, Hội KHLS. Thừa Thiên - Huế, Tạp chí Huế Xưa & Nay tổ chức, ấn hành (gồm 16 bài của 13 tác giả), 02-7-2002:<br /><br />1. Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường – <strong>PGS. TS. Đỗ Bang</strong><br /><br />2. Luận về chỗ đứng và sự chính danh của Nguyễn Văn Tường sau ngày thất thủ kinh đô Huế 5-7-1885 – <strong>Th.S. Nguyễn Quang Trung Tiến</strong><br /><br />3. Công - tội, vị trí của Nguyễn Văn Tường trong nhóm chủ chiến ở triều đình Huế nửa sau thế kỷ XIX – <strong>TS. Nguyễn Nhã</strong><br /><br />4. Tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) – <strong>Nnc. Trần Viết Ngạc</strong> (đã đưa lên web này)<br /><br />5. Nguyễn Văn Tường - một nhà ngoại giao nhiệt tình nhưng bất hạnh trong gọng kềm của lịch sử - <strong>Th.S. Phan Thuận An</strong><br /><br />6. Nguyễn Văn Tường trong thời gian làm Phủ doãn Thừa Thiên – <strong>Nnc. Trần Huy Thanh</strong><br /><br />Bài của Nnc. Trần Viết Ngạc đã được ông đồng ý đưa lên web từ năm 2005.<br />Bài của PGS. TS. Đỗ Bang được đăng tải trên web này cũng đã sự đồng ý của chính PGS. TS..<br />Tuy không liên lạc được với các nhà nghiên cứu khác, nhưng được sự đồng ý của PGS. TS. Đỗ Bang, nguyên chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế, người chủ trì cuộc hội thảo, cũng là người tập hợp các báo cáo nghiên cứu khoa học để in thành tập tài liệu phục vụ hội thảo, tôi mạn phép đưa lên web này các bài đã liệt kê trên.<br />Quý mến mong Th.S. Lê Tiến Công tiếp tục liên lạc với các vị khác giúp.<br />Kính mong được sự đồng ý của các nhà giáo, nhà nghiên cứu.<br />Thành thật cảm ơn.<br />TXA.</em><br /><br /><span style="color:#009900;">NGUYỄN THẾ LONG</span><br /><br /></span><span style="font-family:verdana;"><strong><span style="color:#ff0000;">NGUYỄN VĂN TƯỜNG, NHÀ NGOẠI GIAO<br />LÚC ĐẤT NƯỚC GẶP NHIỀU SÓNG GIÓ</span></strong><br /><br />Nguyễn Văn Tường tên thật là Nguyễn Phước Tường (1824 – 1886), người làng An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông học giỏi, đỗ cử nhân khoa Canh tuất, năm Tự Đức thứ 3 (1850).<br /><br />Ông bắt đầu sự nghiệp quan trường bằng cách tập sự trong các bộ, rồi được nhận một chức trong Bộ Hình [huấn đạo huyện Mộ Đức, tri huyện Cam Lộ, biện lí Bộ Binh -- TXA. chua thêm (ct.)]. Sau đó ông được cử đi làm việc ở các tỉnh [án sát Quảng Nam – ct.], rồi được gọi về làm [tiếp] biện lí Bộ Binh, kế đó, làm phủ doãn phủ Thừa Thiên. Nhưng vì để xảy ra các cuộc chính biến của Hồng Tập, năm 1864, và Đoàn Hữu Trưng, năm 1886, nên ông bị giáng chức, sai đi làm [bang biện khâm phái huyện vụ huyện Thành Hoá (Cam Lộ) -- ct.], lính [tán tương quân vụ -- ct.] ở Bắc Kỳ trong bảy năm.<br /><br />Năm 1973, nhờ Trần Tiễn Thành [và Vũ Trọng Bình – ct.] tiến cử, ông được vua Tự Đức gọi về kinh và cử làm phó sứ trong phái đoàn điều đình với chính phủ Pháp về việc quân Pháp đánh chiếm Hà Nội năm 1873. Ông tới Sài Gòn ngày 31-8-1873 rồi sau đó cùng Phi-lát [Philastre – ct.] ra Hà Nội dàn xếp công việc. Ông và Phi-lát đã kí hai thoả ước rút quân Pháp vào ngày 7-1-1874 và ngày 6-2-1874. Theo hai thoả ước này, quân Pháp trả cho triều đình bốn tỉnh đã chiếm ở Bắc Kỳ. Trên cơ sở những thoả ước đó, một hiệp ước đã được kí vào ngày 15-3-1874 và một thương ước kí vào ngày 31-8-1874.<br /><br />Như đã biết, với chính sách tôn trọng chủ quyền của trú sứ Phi-lát nên cuộc dàn xếp đã nhanh chóng thu được kết quả, triều đình Huế coi như đã giành được thắng lợi và đánh giá công lao của Nguyễn Văn Tường rất cao. Tháng 9-1874, ông được cử làm Thương bạc đại thần (quan trông coi việc ngoại giao và ngoại thương).<br /><br />Thành công trong thương thuyết của Nguyễn Văn Tường đã tạo cho ông uy tín rất lớn trong triều đình. Rê-na [Rheinart – ct.] (sau này là trú sứ ở Huế) đã viết [một cách mỉa mai, cay độc – ct.]: <em>“Việc Phi-lát đã tới Bắc Kỳ với ý định dứt khoát là lập tức trả lại những thành trì mà Phrăng-xi Gác-ni-ê [Françis Garnier – ct.] đã chiếm được. Sứ thần Nguyễn Văn Tường chỉ phải “mệt nhọc” là nhận những thành trì đó từ tay phái viên Pháp, nhưng khi trở lại Huế, Tường đã tuyên bố rằng thành công là nhờ vào tài khéo léo và sức thuyết phục của mình, rằng Tự Đức đã chịu ơn khi thu hồi lại các tỉnh Bắc Kỳ trong một thời gian đã tưởng là bị mất. Giả thuyết ấy được người ta tin và làm cho Tường kể từ năm 1874 trở thành nhân vật ảnh hưởng nhất triều đình Huế. Được coi như người dũng mãnh đã làm cho Pháp phải nhả Bắc Kỳ, nay Tường cũng được coi như người có khả năng làm cho Pháp nhả nốt Nam Kỳ”.</em><br /><br />Giữ chức Thương bạc đại thần đến năm 1881, Nguyễn Văn Tường đã tham gia vào mọi cuộc đàm phán với Pháp, thương thoả với các trú sứ Pháp tại Huế là Rê-na và sau là Phi-lát, trao đổi phê chuẩn hiệp ước. Ông là người chủ trương chống Pháp nên đã bị Săm-pô [Champeaux – ct.], trú sứ Pháp tại Huế, gây áp lực với Trần Tiễn Thành, nhân vật đầu triều lúc bấy giờ, bãi chức ông. Mặc dù phải thôi chức Thương bạc đại thần, ông vẫn có ảnh hưởng trong triều đình với tư cách là thượng thư Bộ Hộ. Khi sứ bộ bán chính thức của nhà Thanh là Đường Đình Canh tới Huế để bàn với triều đình Huế về thái độ đối với Pháp, Tự Đức uỷ quyền cho ông tiếp đón và bàn bạc. Tự Đức rất tin cậy ông, đã thu xếp cho con trai ông lấy chị của Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của Tự Đức (sau này được lên làm vua, là Kiến Phúc).<br /><br />Tự Đức mất (7-1883) đã để lại di chúc lập vua Dục Đức lên ngôi vua, cử phụ chính đại thần giúp vua mới, trong đó có Nguyễn Văn Tường. Khi đó, trong cung đình đã xảy ra nhiều vụ chính biến, Nguyễn Văn Tường giữ một vai chính yếu. Sau cuộc nổi dậy đánh Pháp do Tôn Thất Thuyết chủ trương ngày 5-7-1885, ông bị giặc Pháp bắt dày đi Côn Đảo, sau đó sang Ta-i-ti [Tahiti – ct.] (Thái Bình Dương). Ông mất ngày 30-7-1886.<br /><br />Theo một nhận định của người nước ngoài [Yoshiharu Tsuboi – ct.], ông là <em>“một gương tiêu biểu về chính khách quan lại kiểu Việt Nam: thông minh, có văn hoá, kiên nhẫn, bình tĩnh, vừa khéo léo thương nghị hoặc gây mưu đồ ở hành lang, vừa biết vâng phục nhà vua hoặc trốn trách nhiệm” [*].</em><br /><br />NGUYỄN THẾ LONG<br />(trích nguyên mục: Nguyễn Thế Long, <strong><em>“Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam”</em></strong>, tập 2, Nxb. Giáo Dục, 9-2005, tr. 181-184). </span><br /><br /><br /><br /><span style="font-family:verdana;">[*] Vui lòng xem thêm:<br /><br />-- "Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885)" – Nv. / nc. Trần Xuân An, link:<br /><br /></span><a href="http://tranxuanan-writer-5.blogspot.com/2006/11/nguyn-vn-tng-1824-1886-th-vi-nt-v-con_9621.html"><span style="font-family:verdana;">http://tranxuanan-writer-5.blogspot.com/2006/11/nguyn-vn-tng-1824-1886-th-vi-nt-v-con_9621.html</span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br /></span><a href="http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com"><span style="font-family:verdana;">http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com</span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br /></span><a href="http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_b1.htm"><span style="font-family:verdana;">http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_b1.htm</span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br /></span><a href="http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm"><span style="font-family:verdana;">http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm</span></a><span style="font-family:verdana;"><br /><br />Xem bản in giấy: Cuốn “Nguyễn Văn Tường [1824 -1886], một người trung nghĩa” đã được xuất bản, Nxb. Thanh Niên, 2006; trong đó có bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau ngày kinh đô quật khởi (05-7-1885)”.<br /><br /><br /><span style="color:#ff0000;">Ngày đưa lên web: 02, 03-03 HB7 & <strong><em>04-03 HB7</em></strong> (2007).</span> </span><br /><span style="font-size:85%;">TXA.</span> </span><br /><br /><br /><br /><span style="color:#000000;"><span style="font-family:verdana;"><strong><em>Ghi chú bổ sung (08-03 HB7 [2007]):</em></strong> </span></span><br /><span style="color:#000000;"><span style="font-family:verdana;"><br />+++ Bài viết kết thúc bằng câu trích dẫn ý kiến của Yoshiharu Tsuboi là không thoả đáng. Tuy vậy, để tôn trọng tác giả Nguyễn Thế Long, tôi vẫn giữ trọn vẹn một tiểu mục trong sách của ông như trên, không sai một chữ. Nhưng để thuận tiện cho người đọc, nhất là các sinh viên khoa sử, trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, đi đến chỗ tự nhận định thoả đáng, công bằng, chính xác, thật sự khoa học với tư liệu xác thực đầy đủ về Nguyễn Văn Tường (1824-1886), tôi trân trọng kính mời đọc thêm các cuốn sách tôi đã viết về đề tài này (xem links và tên sách bên trên).<br /><br /><span style="font-family:verdana;"><span style="color:#000000;">+++ Vì không biết địa chỉ nhà ở, địa chỉ điện thư (e-mail), số điện thoại, tôi có nhờ thạc sĩ Lê Tiến Công liên lạc với các nhà nghiên cứu ghi trên. Quý mến mong Th.S. Lê Tiến Công tiếp tục liên lạc với các vị khác giúp, trong khi tôi chưa biết các địa chỉ, số điện thoại để liên lạc trực tiếp, hoặc gửi ngay cho tôi các địa chỉ, số điện thoại ấy.<br /></span><br /><em>Trần Xuân An.</em></span><em> </em></span><br /></span>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-45948767459815122852007-03-04T16:09:00.000+07:002007-03-04T16:09:28.922+07:00VỀ TẤM ẢNH PHAN BỘI CHÂU VÀ CƯỜNG ĐỂ CHỤP CHUNG<div align="justify">BÀI ĐÃ ĐĂNG TRÊN GIAO ĐIỂM (bộ cũ) & GIAO ĐIỂM bộ mới:<br /><a href="http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-2.htm">http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-2.htm</a><br /><br /><br /><strong><span style="color:#ff0000;">VỀ TẤM ẢNH PHAN BỘI CHÂU VÀ CƯỜNG ĐỂ CHỤP CHUNG</span></strong><br /><br /><strong><em>Trần Xuân An</em></strong><br /><br />Sáng hôm nay, 09-08-2006 (HB6), trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, có đăng tải ý kiến của ông Trương Văn Tân và bài trả lời của ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa, về tấm ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung, vốn được nhiều người cho là không theo tôn ti quân thần thời phong kiến (đúng ra là phải <em>“vua ngồi, tôi đứng”</em>).<br /><br /><a href="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/1600/PBC&CD_Toingoichuadung.jpg"><img style="FLOAT: left; MARGIN: 0px 10px 10px 0px; CURSOR: hand" alt="" src="http://photos1.blogger.com/blogger2/2290/240941888944942/320/PBC%26CD_Toingoichuadung.jpg" border="0" /></a><br /><br />Để rõ hơn, xin xem theo <em>link</em> ở chú thích <span style="color:#ff0000;">(*e)</span>, dẫn đến bài viết của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc trên Tạp chí điện tử Chuyển Luân. Trần Viết Ngạc cho rằng khi chụp bức ảnh trái với đạo lí tôn ti phong kiến vốn có <em>“vua ngồi, tôi đứng”</em>, Phan Bội Châu có dụng ý khẳng định chính Phan Bội Châu mới là người lãnh đạo phong trào Đông Du, chứ không phải Cường Để.<br /><br />Xin cảm ơn ông Trương Văn Tân đã phản hồi ý kiến và ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa đã trả lời.<br /><br />Để cuộc thảo luận thêm sôi nổi, trước hết, tôi chỉ nêu thêm một vài tư liệu sẵn có trong sách báo để chúng ta cùng tham khảo. </div><div align="justify"><br /><br /> </div><em><strong><blockquote><em><strong>I. Về tư liệu:</strong></em></blockquote><div align="justify"></strong></em><br /><strong>1.</strong> Tôi đã viết ở một chú thích thuộc phần phụ lục của cuốn sách <em>“Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’” </em>, đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 5-2005:<br /><br />“… trong <em>“Tự phán”</em>, Phan Bội Châu có viết: <em>“Tôi khi chưa gặp Cụ [Mai Lão Bạng – TXA. chua thêm], chưa chụp bóng bao giờ, đến lúc hoan nghênh Cụ, tôi mới cùng Cụ chung nhau chụp một bức ảnh. Người Pháp biết được ảnh tướng tôi là từ lúc đó”</em> (sđd., tr. 144 [1]). Xin hiểu câu này, trong điều kiện máy ảnh còn thô sơ, chưa có ống kính tối tân hiện đại, việc mật thám chụp ảnh lén là rất khó; chỉ có thể chụp ảnh trong hiệu ảnh. Chúng tôi nghĩ rằng, việc Pháp có được ảnh Phan Bội Châu để truy nã hẳn là ngẫu nhiên” [2].<br /><br />Chi tiết cần chú ý là câu trích nguyên văn của Phan Bội Châu. Câu ấy cho người đọc một thông tin: <em><strong>lần đầu tiên Phan Bội Châu chụp ảnh (“chụp bóng”) là lúc gặp Mai Lão Bạng</strong></em>. Và cũng theo <em>“Tự phán” </em>, Mai Lão Bang sang đến đất Nhật Bản vào tháng ba năm Mậu thân (1908) [3] và đến tháng hai năm sau, Kỉ dậu (1909), Cường Để & Phan Bội Châu mới bị Nhật trục xuất [3].<br /><br /><strong>2.</strong> Ngoài ra, còn có một bài thơ của Phan Bội Châu, <em>“Xem bức ảnh mình trước đây 32 năm, tự trào” </em>:<br /><br /><em>Râu mày trơ trẽn với non sông<br />Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng?<br />Sấm điếc gió câm, trời đất trọi<br />Muông qua chim lại, tháng ngày chung<br />Cố đôi (=quăng) xác thịt, đôi (=quăng) không đặng<br />Toan vớt đồng bào, vớt chẳng xong<br />Biết nói cùng ai, cười với bóng<br />Ông xanh xanh hỡi thấu chăng lòng?</em> [4]<br /><br />Xin lưu ý: Dưới bài thơ này không được Phan Bội Châu ghi năm sáng tác, nên chỉ có thể phỏng đoán: khoảng vào năm 1937, căn cứ vào sự sắp xếp vị trí bài thơ của soạn giả bộ sách là phó giáo sư tiến sĩ Chương Thâu (hai bài đặt trước và sau bài này đều được Phan Bội Châu viết vào năm 1937, có ghi năm hoặc cả ngày, tháng lẫn năm sáng tác rất rõ ràng). <em><strong>Nhưng có lẽ Chương Thâu cũng chỉ phỏng đoán mà thôi</strong></em>. Vì vậy, trong trường hợp này, có thể thêm sai số +1 (không thể sớm hơn 1905 mà chỉ có thể muộn hơn 1905), thành năm 1938.<br /><br />Nếu đúng là bài thơ được viết vào năm 1937 hoặc 1938, thì <em>“bức ảnh mình trước đây 32 năm” </em>, được chụp vào năm Ất tị (1905), lúc Phan Bội Châu mới sang tới Nhật Bản, hoặc đầu năm Bính ngọ (1906), Cường Để mới cùng Đăng Tử Kính qua đến nước Nhật [5], gặp Phan Bội Châu.<br /><br />Nhưng có dữ kiện nào cho phép chúng ta nghĩ rằng, bài thơ trên viết về bức ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung (“chúa đứng, tôi ngồi”) đâu? Vì nhìn kĩ, với mức phóng lớn tấm ảnh (xem Chuyển Luân, link đã dẫn), rõ ràng Phan Bội Châu trong ảnh vẫn có chừa râu mép (ứng với câu thơ thứ nhất: <em>“Râu mày…”</em>). Tuy vậy, cũng phải hiểu, “râu mày” chỉ là biểu tượng cho đàn ông, “tu mi nam tử” mà thôi. Câu thơ thứ hai, chỉ là một cách nói tu từ (mĩ từ pháp):<br /><br /><em>Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng? </em><br /><br />Đó không phải là một câu nghi vấn thực sự (ảnh giả mạo).<br /><br />Nhưng, cũng phải đặt vấn đề cho thật rốt ráo: Biết đâu, bài thơ trên có thể được sáng tác muộn hơn, 1939 hoặc 1940 chẳng hạn, và đầu đề bài thơ của Phan Bội Châu cũng sai nốt (không phải 32 năm, mà chỉ 30 năm).<br /><br />Từ đó, với giả thiết như vậy (ảnh được chụp muộn hơn 1908), có thể nói, tấm ảnh <em>“vua đứng, tôi ngồi”</em> (Cường Để & Phan Bội Châu) được chụp ở một thời điểm sau thời điểm Phan Bội Châu chụp chung ảnh với Mai Lão Bạng (<strong>1908</strong>).<br /><br />Sở dĩ, có thể <em><strong>đặt giả thiết với sự sai lệch thời điểm khá lớn</strong></em> như vậy là bởi, qua nhiều văn bản do Phan Bội Châu trước tác, người đọc thấy ông có rất nhiều lầm lẫn khi hồi ức. Xin đơn cử: Trong bài <em>“Tết tha hương” </em>, Phan Bội Châu nhớ số lượng du học sinh đến 400 người; Chương Thâu phải ghi chú là Phan Bội Châu nhớ không thật đúng, sự thực là chỉ trên dưới 200 người mà thôi. Thậm chí, có lầm lẫn đến mức không ngờ là ngày thành lập Việt Nam quang phục hội, một ngày rất trọng đại, Phan Bội Châu cũng không nhớ thật chính xác. Đoạn cuối bài, Phan Bội Châu lại viết: <em>“Tháng giêng năm sau, tức năm Quý sửu, Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Đông đến ngày thành lập” </em>; Chương Thâu phải ghi chú thêm: <em>“Về ngày thành lập Việt Nam Quang phục hội, ở đây Phan Bội Châu nhớ không chính xác. Theo như “Ngục trung thư” (1914), “Phan Bội Châu niên biểu” (1929) thì đều chép là tháng 5-1912, năm Nhâm tí, chứ không phải tháng giêng năm Quý sửu (2-1913)”</em> [6]. Tuổi già, trách sao được những lầm lẫn do lão hóa như thế. </div><div align="justify"><br /><br /> </div><em><strong><blockquote><em><strong>II. Về chủ ý khi chụp ảnh “vua đứng, tôi ngồi”:</strong></em></blockquote><div align="justify"> </em></strong><br />Nếu quả thật là không còn nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của tấm ảnh Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng) nói trên, tôi nhận thấy có ít ra là 3 luồng ý kiến, trong đó có 2 ý kiến chúng ta đã biết:<br /><br />1. Ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc;<br /><br />2. Ý kiến của ông chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm Nguyễn Văn Hóa.<br /><br />Ngoài ra, còn còn có thêm ý kiến thứ 3:<br /><br />3. Ý kiến từ ý kiến của anh Lê Tiến Công (phóng viên Tạp chí Huế Xưa & Nay, giảng viên Đại học Khoa học Huế). Hôm qua, anh Lê Tiến Công có nhắn tin và trao đổi qua điện thoại với tôi. Tuy dè dặt, nhưng anh không tỏ ra không đồng ý với cách lí giải của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc. Và vô hình chung, tôi nghĩ rằng có thể người ta sẽ lí giải: do Phan Bội Châu lớn tuổi hơn, nên Phan Bội Châu phải ngồi, còn Cường Để trẻ hơn ông đến 14, 15 tuổi, theo tôn ti tuổi tác và đạo lí “kính lão đắc thọ”, Cường Để phải đứng.<br /><br />Thật ra, từ lâu, tôi nghĩ, tôn ti tuổi tác và tôn ti quân thần đều phải được xem trọng trong xã hội, nhất là xã hội phong kiến ngày xưa, vốn đặt nặng chữ “Lễ” (với cách thức, ý nghĩa tác dụng theo quan niệm bấy giờ), và cho đến ngày nay, cả hai loại tôn ti ấy không phải là không có một giá trị giáo hóa xã hội nào đó, nên cũng chưa hẳn đã nhạt nhòa. Tuy nhiên, trong trường hợp hai loại tôn ti ấy không thống nhất (vua lớn tuổi hơn bề tôi) mà mâu thuẫn nhau (bề tôi lớn tuổi hơn vua), như trường hợp Phan Bội Châu và Cường Để, thì ngày xưa, người ta phải đặt tôn ti quân thần lên trên tất cả mọi loại tôn ti khác, gồm cả tôn ti tuổi tác (đại thần râu tóc bạc phơ cũng phải khấu đầu trước ấu chúa dăm bảy tuổi).<br /><br />Theo tôi, tôi chỉ nên ghi chép lại lời của chính Phan Bội Châu phát biểu trước tòa án tại Hà Nội vào ngày 23-11-1925: <em>“Tôi phản đối chính trị cố nhiên là phải cần có người, cần có của, <strong>và phải lợi dụng ông Cường Để, cho người trong nước, đã in sâu cái óc quân chủ, vui lòng giúp rập</strong> (TXA. nhấn mạnh). Điều đó tôi không chối”</em> [7]. Như vậy, thực chất, Phan Bội Châu vẫn là một nhà dân chủ với ý thức như Trần Viết Ngạc đã nêu: Phan Bội Châu chứ không phải Cường Để, mới đích thực là lãnh tụ của phong trào Đông Du, với sự xác quyết mục tiêu chính trị của phong trào ấy là làm cách mạng, đánh Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng <em><strong>chế độ quân chủ lập hiến</strong></em> mà vai trò thủ tướng là tối cao và quyền lực quốc hội có giá trị quyết định nhất, nhà vua cùng hoàng gia chỉ là thứ yếu, đều phải chấp hành hiến pháp. Ít ra, đó cũng là mục tiêu dân chủ của Phan Bội Châu, tuy có gì đó, cho đến hôm nay, đầu thế kỉ XXI, hậu thế chúng ta, hẳn có người vẫn còn cảm giác nào đó hơi … “bất bình”, khi nhìn ngắm bức ảnh ấy. Nếu hiểu mình bị <em>lợi dụng</em> chỉ như một “chiêu bài”, mặc dù biết rằng sự việc này thường xuyên diễn ra dưới chế độ phong kiến hàng ngàn năm, hẳn Cường Để đã buồn đau, phẫn nộ biết chừng nào? Hay tự thâm tâm, và biết đâu, Cường Để đã cùng Phan Bội Châu minh bạch giao ước: Cường Để đã là và sẽ là một nhà vua quân chủ lập hiến, đồng chí và đồng quyền lợi (chia sẻ quyền lực tùy tỉ lệ như hiến định) với Phan Bội Châu, theo trào lưu tiến bộ xã hội bấy giờ [8], những năm đầu thế kỉ XX (01-09/XX)? …<br /><br />Nên chăng, cần thêm vài dấu cảm xen lẫn với vài dấu hỏi?<br /><br />Khế ước xã hội vốn minh bạch?<br /><br />Kính mong được góp ý thêm về bài viết…<br /><br />TRẦN XUÂN AN<br /><em>Tp.HCM., 17 giờ 24, ngày 09-08 HB6 (2006)</em><br /><br />_____________________<br /><br /><br />[1] Phan Bội Châu, <em>“Tự phán” </em>, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2000, tr. 144.<br /><br />Đối chiếu: Chương Thâu (biên soạn ), <em>“Phan Bội Châu toàn tập”</em>, tập <strong>6</strong>, [trong tập này có <em>“Phan Bội Châu niên biểu” </em>(tên khác của cuốn <em>“Tự phán” </em>)], Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 176.<br /><br />[2] Xem: <a href="http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucV.htm">http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucV.htm</a><br /><br />[3] <em>“Tự phán”</em>, sđd., tr. 142 & 156.<br />Ngoài ra, có một số bài thơ khác của Phan Bội Châu có liên quan đến ảnh chụp như sau:<br /><br />+++ <em>“Đề bức ảnh chụp chung với Nguyễn Ngọc Dư” </em>,<br />trong “Phan Bội Châu toàn tập”, tập <strong>5</strong>, sđd., tr. 376.<br /><br />+++ <em>“Đề sau bức ảnh cụ Lý Tuệ”</em><br />trong <em>“Phan Bội Châu toàn tập”</em>, tập <strong>5</strong>, sđd., tr. 323.<br />Lý Tuệ chụp ảnh kỉ niệm khi vô Huế thăm PBC., vào năm 1931 (sđd., tr.đd.).<br /><br />+++ Câu đối (1937): <em>“Tặng Thần Kinh ảnh quán”</em><br /><em>“Phan Bội Châu toàn tập”</em>, tập <strong>6</strong>, sđd., tr. 447.<br />Khoảng 1936 – 1940 (chú thích sđd., tr. đd.)<br /><br />[4] Chương Thâu (biên soạn ), <em>“Phan Bội Châu toàn tập”</em>, tập <strong>5</strong>, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 378.<br /><br />[5] <em>“Tự phán” </em>, sđd., tr. 78 – 79.<br /><br />[6] <em>“Phan Bội Châu toàn tập” </em>, tập <strong>4</strong>, sđd., tr. 374 – 378.<br /><br />[7] <em>“Phan Bội Châu toàn tập” </em>, tập <strong>4</strong>, sđd., tr. 22 – 24.<br /><br />[8] Về sau, chính Phan Bội Châu cũng phủ định chế độ quân chủ lập hiến mà chủ trương chính thể cộng hòa, dân chủ, tiến bộ hơn.<br /><br />TXA. </div>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-1973795954236967154.post-56199953965325503732006-09-15T20:37:00.000+07:002006-09-13T15:14:16.308+07:00CHỦ NGHĨA PHÁP – VIỆT ĐỀ HUỀ CỦA PHAN BỘI CHÂU<div align="justify">BÀI ĐÃ ĐĂNG TRÊN GIAO ĐIỂM (bộ cũ) & GIAO ĐIỂM bộ mới:<br /><a href="http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-1.htm">http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-1.htm</a><br /><br /><span style="color:#ff0000;"><strong>CHỦ NGHĨA PHÁP – VIỆT ĐỀ HUỀ CỦA PHAN BỘI CHÂU</strong></span><br />_____________________________________________________<br /><br />TRẦN XUÂN AN<br /><br />(sơ thảo)<br /><br />Mặc dù có những sai lầm về sử học, Phan Bội Châu vẫn là một nhà yêu nước, hoạt động cách mạng được lịch sử ghi nhận. Tuy nhiên, ngay trong phương diện chống Pháp, tư tưởng và hành trạng của Phan Bội Châu cũng vấp phải nhiều sự đánh giá khác nhau. Xét từ thời điểm gây tiếng vang lớn nhất, ngay từ 1925, lúc cuộc xét xử Phan Bội Châu do Hội đồng Đề hình, gồm 5 người, đều là thực dân Pháp, diễn ra ở phiên tòa mở tại Hà Nội, cũng đã có nhiều lời khen và cả tiếng chê Phan Bội Châu, nhất là sau khi <em>“Lời tuyên ngôn thông cáo cả toàn quốc”</em> của Phan Bội Châu được đăng tải trên báo chí bấy giờ (1). Về sau, không rõ thực hư thế nào, nhưng nghe phong thanh đâu đó, theo một số bài viết được công bố gần đây, là đã có một thời, khoảng giữa những năm 50/XX, ở Miền Bắc, trong phong trào “quá tả”, nhân vật lịch sử Phan Bội Châu bị người ta làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố. Riêng tôi, người viết bài này, lúc còn là sinh viên năm thứ tư Đại học Sư phạm Huế (1977), có dịp cùng cả lớp Ngữ văn 4 ra tham quan các di tích ở Nghệ An, trong đó có Nhà lưu niệm Phan Bội Châu, tôi đã chứng kiến được nỗi mặc cảm còn âm hưởng khá sâu đậm ở con gái út của Phan Bội Châu.<br /><br />Thật ra, mặc dù có những hạn chế nghiêm trọng thực sự, Phan Bội Châu vẫn được nghiên cứu, giảng dạy ở đại học và trung học với sự đề cao những mặt tích cực trong tư cách, vị trí là một nhân vật lịch sử, một tác giả văn học có tầm cỡ.<br /><br />Một trong những hạn chế của Phan Bội Châu, đó là <em>“chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề”</em> của ông.<br /><br /></div><blockquote><p align="justify"><strong>I. Phan Bội Châu trước tòa án công khai của thực dân Pháp:</strong></p></blockquote><div align="justify"><br /><br />Không phải đến ngày 23 tháng 11 năm 1925, lúc phiên tòa của thực dân Pháp xét xử Phan Bội Châu, <em>“chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề”</em> mới chính thức và công khai do chính Phan Bội Châu phát biểu tại phiên tòa ấy, mà đã được ông công bố từ 1918, lúc Phan Bội Châu còn hoạt động trong điều kiện khá tự do tại Trung Quốc.<br /><br />Nội dung phiên tòa, gồm cả việc đề cập đến <em>“chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề”</em> ấy, đã được ghi lại trong một bản tường thuật (2):<br /><br /><em>“… Cụ Phan nói đến đây, trạng sư Bona hỏi cụ rằng:<br /><br />- Trong lời khai, cụ có nói rằng, cụ cũng có cái tư tưởng thân Pháp, cái tư tưởng ấy, cụ có viết trong hai cuốn sách kia mà?<br /><br />Cụ Phan đáp:<br /><br />- Có, tôi có viết hai cuốn sách, một cuốn là “PHÁP VIỆT ĐỀ HUỀ LUẬN” (3), và một cuốn là “DƯ CỬU NIÊN LAI SỞ TRÌ CHI CHỦ NGHĨA” (4). Tôi có gửi hai cuốn sách ấy cho quan toàn quyền Sarraut. Coi đó thì tôi không phản đối nước Pháp, tôi chỉ phản đối cách cai trị thuộc địa của nước Pháp mà thôi. Từ năm 1916, 1918 trở về sau, chắc chính phủ Pháp cũng biết những điều lầm lỗi ấy, chính trị đã biết cải lương đôi chút, công thương phát đạt, trường học mở nhiều, tôi cũng có bụng mừng cho tiền đồ Nam Việt. Tôi mong rằng được cùng chính phủ hiệp lực, đồng tâm, người Nam, người Pháp cùng dắt tay nhau lên con đường văn minh tiến bộ. Nên vừa rồi, tôi có viết một quyển sách nữa, nhan đề là “SÁNG TẠO THIẾU NIÊN VIỆT NAM QUỐC CHI PHƯƠNG PHÁP”, trong đó có nói những điều tiến bộ của chính phủ Pháp đã gây cho nước Nam.<br /><br />Cụ Phan nói đến đây, ông chánh án dứt lời và nói:<br /><br />- Hội đồng Đề hình chỉ xét lại cáo án năm 1913 xử vắng mặt cụ vào tử hình mà thôi, còn việc từ năm 1913 trở về sau, thì không cần nói đến; vậy những tội kia cụ có nhận hay không thì nói.<br /><br />Cụ đáp:<br /><br />- Tôi chỉ nhận có 4 tội như tôi đã nói, còn ngoài ra tôi không có tội gì khác”.</em><br /><br />Như vậy, hiển nhiên phiên tòa ấy chỉ được thực dân Pháp tổ chức nhằm xét xử lại bản án thứ ba do Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ của Pháp tuyên tại Hà Nội từ 12 năm trước (05-9-1913), không kể đến hai bản án do quan chức Nam triều tuyên tại Hà Tĩnh (27-5-1908), tại Vinh (Nghệ An, 07-02-1910), cũng không xét xử những hoạt động của Phan Bội Châu từ 1913 đến thời điểm ông bị bắt, 1925.<br /><br />Trong phiên tòa thứ tư và cũng là cuối cùng này, vào ngày 23-11-1925, Phan Bội Châu đã tranh cãi với quan tòa thực dân Pháp, có sự biện hộ của hai luật sư người Pháp, nhưng thực ra, luận cứ chính yếu Phan Bội Châu đưa ra là chỉ khẳng định lại <em>“chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề”</em> của ông như chúng ta đã đọc ở đoạn trích dẫn trên. Cụ thể hơn, Phan Bội Châu đã đưa ra những lí lẽ:<br /><br /><em>“Nếu tôi là người có tội, thì tôi chỉ có bốn tội sau này:<br /><br />1) Chính phủ sang bảo hộ nước Nam, không ai phản đối mà một mình tôi phản đối, lại muốn cho nước Nam độc lập.<br /><br />2) Nước Nam xưa nay là chính phủ chuyên chế, mà tôi muốn cho nước Nam thành ra một dân quốc.<br /><br />3) Nhà nước cấm không cho người đi du học ngoại quốc, mà tôi trốn đi và rủ người đi ngoại quốc.<br /><br />4) Tôi trước thư, lập ngôn để cổ động dân Nam thức dậy, yêu cầu chính phủ cải lương chính trị, làm hết cái thiên chức khai hóa của mình”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (5).<br /><br />Nhà yêu nước Phan Bội Châu, trong tư thế bị cáo trước vành móng ngựa của tòa án thực dân Pháp, trước đó, đã biện minh cụ thể theo trình tự thời gian đã ông trải qua. Đây là thuở mới bắt đầu dấn thân vào hoạt động cách mạng:<br /><br /><em>“Thế nhưng tôi là một kẻ thư sinh, túi không có một đồng tiền, tay không có một tấc sắt, không lấy võ lực mà phản đối lại được, vậy tôi chỉ dùng văn hóa, nghĩa là trước thư, lập ngôn để cổ động nhân dân, yêu cầu chính phủ cải lương chính trị. Chẳng dè chính phủ ngờ vực tôi, bắt tôi, tôi phải trốn ra ngoại quốc để hành động cho đạt cái mục đích của tôi”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu, ngày 23-11-1925) (6).<br /><br />Phan Bội Châu khẳng định ông chỉ đấu tranh bằng vũ khí văn hóa, và văn hóa cũng chỉ đơn thuần là sách, những bài luận và thơ văn. Mục tiêu đấu tranh cũng chỉ là cải lương về phương diện chính trị thuộc chế độ thống trị của Pháp:<br /><br /><em>“Tôi phản đối là phản đối chính trị mà thôi, còn về chủng tộc, về tôn giáo, tôi không hề phản đối. Ai ai cũng là con Thượng Đế, người Nam, người Pháp vẫn là anh em một nhà. Tôi muốn rằng người Pháp, người Nam dìu dắt nhau mà cùng mưu lợi chung, miễn là chính thể cải lương cho được công bằng, cho có nhân đạo”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (7).<br /><br /><em>“Tôi phản đối là phản đối chính thể mà thôi, sao lại gọi là phá hoại chính phủ Bảo hộ được!<br /><br />Dân Việt Nam mất nước, như đàn con mất mẹ, chính phủ Bảo hộ tự nhận làm người mẹ nuôi ôm lấy mà trông nom dạy bảo cho. Tôi cũng là người trong nhà, trông thấy anh em mồ côi mồ cút cũng thương, lẽ đâu muốn cho anh em mất người mẹ nuôi ấy! Tôi cổ động là cổ động cho đồng bào biết hợp quần, biết ái quốc, biết yêu cầu cải lương chính trị, chớ có cổ động cho nhân dân làm loạn đâu?... Vả, nếu là kẻ có ý muốn làm loạn, thì tôi cứ ở ngay trong nước theo với Đề Thám cũng có thể làm được, có cần gì phải bỏ vợ, bỏ con, bỏ nhà, bỏ nước mà trốn đi ngoại quốc làm gì? Năm 1913, tôi nghe tin buộc tôi vào tội tử hình thì tôi vẫn đi lại ở Thượng Hải, có sợ gì đâu, vì tôi tự biết là vô tội”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (8).<br /><br />Cho dù <em>“chủ nghĩa cải lương”</em> hay <em>“chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề”</em> ảo tưởng vẫn còn có nét nào đó đáng quý so với tư tưởng tay sai, ý thức bù nhìn thời bấy giờ, nhưng cách nói của Phan Bội Châu, nghe ra có gì đó quá đỗi tủi thẹn khi thừa nhận chế độ thực dân Pháp đã và đang <em>“làm cái thiên chức khai hóa”</em>, là <em>“người mẹ nuôi”</em> của dân tộc ta, một dân tộc bị rơi vào cảnh mất nước (bởi chính kẻ cướp nước là thực dân Pháp!) như <em>“đàn con mất mẹ”</em>!<br /><br />Và còn tủi hổ, nhục quốc thể hơn thế nữa, khi chính nhà yêu nước, cách mạng Phan Bội Châu lại phát biểu trước quan tòa thực dân và đông đảo người dự phiên tòa, để phản bác sự buộc tội của Pháp, chúng cho rằng Phan Bội Châu đã “phản đối” chúng vì động cơ chức quyền phú quý:<br /><br /><em>“… cuốn “LƯU CẦU HUYẾT LỆ TÂN THƯ” là tôi làm từ trước, có đưa cho ông Phan Chu Trinh và cụ thượng Cao Xuân Dục xem, như vậy có phải là vì bất đắc chí với khoa cử rồi muốn tiếng ái quốc để cầu lợi lộc gì đâu?”</em> (9).<br /><br /><em>“Nước Nam mà không thành được dân quốc, tôi nhận cái danh tổng thống thời quý hóa gì, ví như một nhà, ông Cường Để là người chủ mà tôi chỉ là người giúp việc; việc chưa nên cơ ngũ gì, tôi viết báo, làm sách lấy tiền nuôi thân và nuôi các đồng chí; trong các sách đó, cũng có cuốn tôi viết, cũng có cuốn người khác mượn tên tôi mà viết (TXA. nhấn mạnh). Trong các sách tự tay tôi viết, có chỗ ví người Pháp như thần thánh, ví dân Nam như gà như lợn. Tôi khuyên người Nam nên cố học cho bằng người Pháp để yêu cầu quyền độc lập, chớ tôi có xui ai làm việc bạo động bao giờ! Những kẻ bạo động chắc là không ai đọc sách tôi, không đọc sách tôi nên mới lấy gà lợn mà chống lại thần thánh. Vả chăng những việc ấy là việc vô nhân đạo, nước Nam mà độc lập, tôi mà có quyền thế, quyết nhiên cũng không dung túng những kẻ làm việc bạo động như vậy, vì làm thế là làm hại cho người Nam”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (10).<br /><br />Phan Bội Châu đã trung thực khi cho rằng, <em><strong>“trong các sách đó, cũng có cuốn tôi viết, cũng có cuốn người khác mượn tên tôi mà viết”</strong></em> (*a), nhưng “biện minh” cho bản thân là không chủ trương hoạt động vũ trang, xem bạo lực cách mạng (bạo động) là vô nhân đạo, lại dùng cách ví von dân ta như <em>“gà lợn”</em>, Pháp như <em>“thần thánh”</em> là không thể chấp nhận được, cho dù đó là cách nói thậm xưng.<br /><br />Quan tòa thực dân Pháp lại buộc tội và hạ bệ Phan Bội Châu:<br /><br /><em>“Ông Phan Chu Trinh là bạn của ông, cũng là người phản đối chính trị, song cách của ông Trinh là cách hòa bình, không như cách của ông là cách kịch liệt. Bao nhiêu sách viết ra truyền bá cái tư tưởng cừu thị người Pháp, bao nhiêu lần chủ trương việc bạo động, đó là cái tang chứng rõ ràng. Vì ông mà bao nhiêu người sa lạc vào con đường tội lỗi. Khi đem ra các tòa án xét mỗi một việc này, hỏi mỗi người một lúc, thế mà chúng khẩu đồng từ, đều nói tại ông xúi giục chủ trương. Bao nhiêu công việc họ làm đều là tội ở ông cả. Những người ấy vì ông sai khiến quyến rũ mà đến nỗi thế. Thế mà hỏi thì ông chối. Nhiều việc khác trong khi dự thẩm, khi thì ông đổ lỗi cho ông Nguyễn Thượng Hiền, khi thì ông đổ lỗi cho Cường Để. Xem đấy đủ biết cái cách chống chế của ông không khéo, không có can đảm, không phải là người anh hùng…”</em> (lời của quan tòa người Pháp) (11).<br /><br />Đối với lời hạ bệ chính Phan Bội Châu của quan tòa thực dân Pháp – chúng cho rằng Phan Bội Châu không phải là một anh hùng khi ông ngụy biện, chối tội (sic) –, Phan Bội Châu đã thú nhận về <em>“chiêu bài phù Nguyễn”</em>, cụ thể là phù Cường Để của mình:<br /><br /><em>“Tôi phản đối chính trị cố nhiên là phải cần có người, cần có của, và phải lợi dụng ông Cường Để, cho người trong nước, đã in sâu cái óc quân chủ, vui lòng giúp rập (TXA. nhấn mạnh). Điều đó tôi không chối.</em><br /><br /><em>Đến như hội “Duy Tân” thì là một học hội. Tôi có chiêu tập hàng thiếu niên anh tuấn trong nước ra ngoài cầu học. Ông Cường Để làm hiệu trưởng mà tôi thì làm giám đốc. Một hội như thế, có việc gì đáng tội đâu. Chẳng may chính phủ Nhật Bản cấm cách, chúng tôi phải trở về Tàu. Cái hội “Việt Nam Quang Phục” là người Tàu thương chúng tôi mà dung cho, trong đó có cả người Tàu, song nói rằng có ông Nguyễn Thượng Hiền thì thật là oan cho ông ấy quá. Điều đó tôi không chịu. Bấy giờ ông Nguyễn Thượng Hiền ở Sơn Tây chớ có ở Quảng Đông đâu! Vả chăng mục đích hội cũng chỉ là cầu học. Tôi định cổ động cho trong nước có nhiều người du học; khi có nhiều tay trí thức, bấy giờ mới yêu cầu chính phủ Bảo hộ trả lại quyền tự trị, lập thành một nước dân quốc. Trước sau tôi vẫn chủ trương dùng văn hóa mà phản đối chính trị, văn hóa không xong thì tôi mới dùng đến võ lực. Chính trị còn một ngày bất lương, tôi còn một ngày phản đối. Chính trị mà có một ngày cải lương thì lập tức tôi đình chỉ sự phản đối ấy ngay”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (12).<br /><br />Trong những đoạn tranh luận khá đanh thép với quan tòa thực dân Pháp, Phan Bội Châu vẫn tiếp tục khẳng định <em>“chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề”</em> của mình và cũng để những lời đanh thép ấy trộn lẫn với cách nói ví von đầy tủi thẹn như thế. Lần này, là <em>“như con muỗi”</em> và <em>“như trời như biển”</em>:<br /><br /><em>“Cái tên Phạm Văn Tráng về đây tôi mới biết. Trong hội “Việt Nam Quang Phục” không có tên người ấy. Một người không quen biết bao giờ khi nào lại có thể lấy cái quan tước, cái phú quý mười phần chưa chắc chắn phần nào mà dụ người ta làm những việc như việc ném bom, là sự mười phần chắc chết cả mười được. Họ đổ cho tôi là chủ sự, chẳng qua là họ nghe tiếng tôi ra nước ngoài viết báo làm sách, ai ai cũng biết, và nếu những người ấy có quả thật là người trong đảng tôi nữa, thì đầu đảng tôi là ông Cường Để, chủ sự tất tự ông Cường Để chớ sao lại tự tôi? Còn những việc mà tôi nói tự ông Cường Để, tự ông Nguyễn Thượng Hiền là sự thật.<br /><br />Tôi chối làm gì?<br /><br />Ngay từ lúc tôi làm việc phản đối chính trị, tôi đã cầm chắc hai phần: một là nước Nam được độc lập, hai là tôi phải mất đầu. Về đây, chắc chết rồi, đổ tội cho ai nữa mà mong cho nhẹ tội? Hội đảng chúng tôi dựng lên là cần có tiền, cần có người, song nhờ có ông Cường Để có thế lực với dân trong Nam, ông Thuật, ông Nguyễn Thượng Hiền có thế lực với dân ngoài Bắc, có các ông ấy thì mới có đủ thu được nhân vọng Nam, Bắc; còn tôi, tôi chỉ có thế lực ở tỉnh Nghệ, cùng mấy tỉnh Trung Kỳ mà thôi. Sự đó là sự thật, không phải tôi chối. Chúng tôi dắt nhau ra ngoài, trước hết là cần phải tìm cách để nuôi được nhau đã, vì thế nên có nhờ người Tàu giúp tiền của thật […].<br /><br />Những tội lỗi của những kẻ bạo động kia mà cho là tội lỗi của tôi cả, điều đó chi phải một nửa, nghĩa là chỉ phải về một phương diện mà thôi. […] chớ về phương diện pháp luật thì khi nào tội người em lại có thể là tội người anh, tội người con có thể là tội người bố được. […] Tôi phản đối chính trị, nhưng chỉ dùng cách hòa bình, chớ không dùng cách kịch liệt. Thân tôi thì chẳng qua như con muỗi, mà nhà nước thì binh lực như trời như biển, tôi chống sao cho lại mà tính chuyện bạo động? Đến nay hơn 20 năm trời, chiếc thân cơ khổ, một việc không nên, như thế tôi sao có thể là kẻ anh hùng cứu quốc được. Nước Nam mà ra nước Nam, thời có hàng ngàn người hơn tôi đứng ra lo toan việc nước, chớ như tôi, sao có đáng là bậc anh hùng. Tôi tuy là kẻ không anh hùng, song tôi thật không phải là kẻ tiểu nhân, chỉ tham đồ phú quý…” </em>(lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (13).<br /><br />Và sau đây là lời bào chữa của luật sư Bona, người Pháp, cho “bị cáo” Phan Bội Châu. Bona, trước hết, bào chữa cho động cơ hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu:<br /><br /><em>“Cụ đem cái ý tưởng ấy bàn với các đại thần (*b), thì bọn này lại dọa nạt cụ bằng câu xử tử. Cái máu nóng gặp phải những phản đối như vậy lại càng như sôi như đốt…”</em> (lời bào chữa của trạng sư Bona) (14).<br /><br />Cũng luật sư thực dân Bona ấy, y lại bào chữa tiếp cho bị cáo – nhà yêu nước và cách mạng Phan Bội Châu –:<br /><br /><em>“Cụ có dự định dùng võ lực thật, nhưng chỉ dùng trong trường hợp vận dụng văn hóa không thành công mà thôi. Vả lại võ lực có chính đáng thì cụ mới làm, nghĩa là luyện tập lấy lục quân, hải quân, đại bác, phi cơ, khi nào đầy đủ mới đường đường chính chính đem quân ra khai chiến.<br /><br />Nhưng đó là tư tưởng cụ về trước. Còn gần đây thời cụ là người thế nào? Ngay khi vẫn còn tự do, tự chủ, được tha hồ vùng vẫy nơi hải ngoại, cụ cũng đã soạn ra hai bộ sách mới. Cuốn thứ nhất là</em> “Dư cửu niên lai, sở trì chi chủ nghiã”<em>, trong đó cụ khuyên đồng bào nên từ bỏ hẳn lối bạo động, lối võ lực, theo gương Arabie và Phi Luật Tân, có tiến lên bằng văn hóa thì người Pháp phải cho tự trị. Cuốn thứ hai là</em> “pháp - Việt đề huề luận”<em>, trong đó cụ khuyên người Nam nên đồng lao cộng tác với người Pháp.</em><br /><br /><em>Trong cuốn sách này cụ có đoán rồi sau này thế nào cũng có một cuộc Pháp – Nhật chiến tranh, và khi đó người Việt Nam phải thế nào? Cụ khuyên đồng bào nên đi đôi với Pháp mà chống lại Nhật, không phải về võ bị Nhật có kém gì người Pháp, nhưng cụ viện ra bốn lẽ sau đây…”. […]<br /><br />Bởi vậy cụ Phan khuyên người Việt nam phải đồng tâm với Pháp vì họ đãi mình được công bằng nhân đạo hơn. […]<br /><br />Như thế chẳng phải là một bằng chứng xác thực là cụ đã biến cải cái ý tưởng trước kia của cụ đấy hay sao? […]<br /><br />Như vậy thời lúc này chẳng phải là lúc nên đem cái ý kiến Pháp - Việt đề huề của cụ Phan đã khuyên người đồng bang ra mà thực hành hay sao?"</em> (15).<br /><br />Đã rất rõ ràng, thực dân Pháp, ở khung cảnh này là quan tòa Pháp và luật sư Pháp, chúng đã bộc lộ ý đồ sử dụng Phan Bội Châu như một người đề xướng ý thức làm tay sai “hợp tác” với chúng, trong kế hoạch cai trị, bóc lột dân tộc ta, ở thời đoạn chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, Liên bang Xô-viết vừa ra đời, ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các thuộc địa (*c), và đặc biệt, nguy cơ cận kề nhất là phát-xít Nhật đang đà hùng mạnh. Bona còn nói thẳng, việc tha bổng cho Phan Bội Châu là một <em>“hành động chính trị khôn khéo”</em>, chứ không phải tòa án là nơi thực thi công lí thuần túy, cho dù là thứ công lí của thực dân, bạo quyền:<br /><br /><em>“Thưa các Ngài, các Ngài nên dung thứ cho cụ Phan Bội Châu, vì như vậy, chẳng những các Ngài đã làm được một hành động quảng đại đối với lương tâm, mà các Ngài còn làm được một hành động chính trị khôn khéo nữa, và do đó, người Pháp chúng ta, ai là kẻ thức giả cũng phải đem lòng mến phục các Ngài”</em> (lời bào chữa của trạng sư Bona (*d)) (16).<br /><br />Thực chất, cuộc xét xử Phan Bội Châu do thực dân Pháp “đạo diễn”, có nguyên nhân sâu xa hơn, như chúng ta đã biết. Đó là do cục diện chính trị thế giới đã có những biến chuyển mạnh mẽ, dữ dội. Ngay tại chính quốc, giới chóp bu Pháp đang phải đối phó với những cao trào dân chủ bên trong nước Pháp. Bài tường thuật về phiên tòa, trước đó, còn ghi nhận thêm về lời của luật sư thứ nhất, người Pháp, tên Larre:<br /><br /><em>“Trong khi ông Larre [luật sư – TXA. chua thêm] cãi lại, có dẫn cả lời của quan toàn quyền Sarraut diễn thuyết ở Bruxelles (Bỉ) và nói rằng cái chính sách thuộc địa ngay bên Pháp cũng bị nhiều chính đảng phản đối, như Đảng Xã hội hợp nhất chẳng hạn, chứ chẳng kể chi đến Đảng Cộng sản là đảng kịch liệt xưa nay”</em> (17).<br /><br />Bona lại khẳng định một cách oái ăm, trái khoáy, rằng tên thực dân chóp bu ở Đông Dương là Varenne sẽ “ý hợp tâm đầu” với Phan Bội Châu:<br /><br /><em>“Cái lí tưởng của cụ Phan, nói tóm lại, là muốn đem một tinh thần mới mà sửa đổi lại chính trị ở nước mình. Trong bài diễn thuyết của ông toàn quyền Varenne đọc tại Auvergne ngày 11 Octobre 1925, mà Thời Báo (Le Temps) bên Pháp ngày 13 Octobre 1925 đã đăng mấy câu sau này:<br /><br />“Nếu cái chính sách của ta ở bên Đông Dương không kịp đem một cái tinh thần mới là cái tinh thần hòa bình, công chính, cải lương, mà sửa đổi lại, thì chỉ nay mai là gặp những biến động chẳng khác gì ở Maroc”.<br /><br />Xem một câu ấy thì biết ông toàn quyền Varenne với cụ Phan Bội Châu, nếu có ngày gặp nhau sẽ ý hợp tâm đầu”</em> (lời bào chữa của trạng sư Bona) (18).<br /><br />Nhưng, ngỡ như vô lí thay, lời nói ấy lại được chính Phan Bội Châu thừa nhận! Có thể, vì Varrenne vốn là một cựu đảng viên Đảng Xã hội Pháp, tuy y đã tự li khai, dấn thân vào hàng ngũ những kẻ cực hữu, chủ trương viễn chinh, xâm lược và duy trì, củng cố thuộc địa. Nhưng có lẽ chính xác hơn, như đã nói, nguyên nhân chính vẫn là do cục diện và trào lưu thế giới đã có nhiều biến đổi sâu sắc và rõ nét.<br /><br />Cuối phiên tòa, thực dân Pháp tuyên án: Phan Bội Châu phải chịu mức án khổ sai chung thân. Và Phan Bội Châu đã tuyên bố ông sẽ chống án theo thủ tục luật pháp bấy giờ. Trước khi tiến hành thủ tục kháng án ấy, Phan Bội Châu cũng phát biểu lời cuối của mình tại phiên tòa:<br /><br /><em>“Tôi cũng cảm ơn Hội đồng đã đem tôi ra trước mặt công chúng xét xử, lại cử hai trạng sư biện hộ. […] nhưng nếu nhà nước Bảo hộ lấy văn minh sang khai hóa cho các dân tộc ở Đông Dương, thời thiết tưởng như tôi thật đáng được tha tội”</em> (lời cãi trước tòa của Phan Bội Châu) (19).<br /><br />Cũng lại là cách nói thảm hại! Cách nói ấy vừa có màu sắc phong kiến, vừa có tính chất nô lệ của một xã hội bị thực dân cũ thống trị, mà ngay chính một nhà yêu nước, cách mạng, chống Pháp như Phan Bội Châu cũng không thoát được? Đó cách nói mà chúng ta, những người đã đọc biết bao nhiêu bản <em>“Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”</em> của thời chống Pháp, từ phong trào Cần vương cho đến về sau này, trong đó có cả những đoạn văn, bài thơ rực lửa của chính Phan Bội Châu, không khỏi lạnh người vì xấu hổ! Mặc dù trong những ngôn từ thuộc loại đó, nói cho công bằng, với tinh thần “gạn đục khơi trong”, chúng ta vẫn thấy khí phách của Phan Bội Châu còn sót lại. Tuy vậy, có lẽ, phần nào cũng đúng như quan tòa thực dân đã hạ bệ Phan Bội Châu, ông chưa thật sự biến phiên tòa thực dân “đạo diễn” để làm mất uy tín chính ông thành phiên tòa tố cáo tội ác của chúng với bản cáo trạng đanh thép, hùng hồn nhất. Thật đáng tiếc!<br /><br />Rồi sau đó không lâu, khi đã được chính phủ Pháp tại Paris chuẩn y, chính Varenne kí nghị định tha bổng cho Phan Bội Châu:<br /><br /><em>“Nghị định đặc xá Phan Bội Châu<br />Toàn quyền Đông Dương<br />Chiểu theo…<br /><br />[…]<br />… Điều 1: Nay quyết định ân xá kể từ ngày hôm nay, xóa hoàn toàn hình phạt khổ sai chung thân cho người An Nam có tên là Phan Bội Châu.<br /><br />Điều 2: Thống sứ Bắc Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, giám đốc Sở Tư pháp, mỗi người trong phạm vi liên quan đến mình, có trách nhiệm thi hành nghị định này.<br />Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 1925<br />Varenne (đã kí)”</em> (20).<br /><br />Có lẽ chúng ta cũng cần lưu ý, đây là nghị định ân xá hình phạt khổ sai chung thân (ngày 23-11-1925), chứ không phải là văn bản xác minh Phan Bội Châu hoàn toàn vô “tội” (“tội” yêu nước, thương dân và “tội” chống thực dân Pháp).<br /><br /></div><blockquote><p align="justify"><strong>II. Phong trào đấu tranh đòi ân xá cho nhà yêu nước Phan Bội Châu:</strong></p></blockquote><div align="justify"><br /><br />Trong thực tế lịch sử, quả thật đã có phong trào nhân dân và báo chí cùng các hội đoàn trong nước và trên thế giới lên tiếng đấu tranh đòi ân xá cho nhà yêu nước, cách mạng Phan Bội Châu.<br /><br />Phòng trào đó, chắc hẳn phải được phân tích với nhiều nguyên nhân.<br /><br />Một trong những nguyên nhân chính yếu nhất, đó là do hình ảnh nhà yêu nước, cách mạng đồng thời là nhà văn, nhà thơ, nhà báo Phan Bội Châu trong những năm trước 1913, với hai bản án của Nam triều và một bản án của thực dân Pháp với mức án tử hình vắng mặt dành cho ông.<br /><br />Một nguyên nhân khác, không kém phần quan trọng, đó là do sự “tháo xiềng” từ bên trên, do chính phủ Pháp và do toàn quyền thực dân Pháp tại Đông Dương, bởi cục diện và xu thế thế giới đã có những chuyển biến sấu sắc, mạnh mẽ, dữ dội, làm rung chuyển tận nền móng chủ nghĩa thực dân Pháp, thực dân Âu Mỹ nói chung, kể cả nguy cơ bành trướng của phát-xít Nhật đang trên đà hùng mạnh (mặc dù đến giai đoạn thế chiến thứ II, 1939 – 1945, Nhật mới chính thức gia nhập phe trục với Đức và Ý). Như đã phân tích, qua lời nói của hai luật sư thực dân Pháp, Larre và Bona, ngay cả hai toàn quyền Đông Dương, Sarraut cũng như Varenne, cũng đều phải tự điều chỉnh chính sách thực dân của chúng, nhằm mua chuộc nhân dân bản xứ thuộc địa, lôi kéo họ vào quân đội Pháp để làm bia đỡ đạn, bảo vệ chính quốc và chính quyền tại chỗ của chúng, mặc dù bản chất thực dân của chúng là không thay đổi, như lịch sử giai đoạn về sau (1925 – 1930 – 1945 – 1954) đã chứng minh. Điều này đã lí giải vì sao có cả những tờ báo tay sai đích thực của Pháp lại cũng lên tiếng đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Thực chất đó là thủ đoạn mị dân của chúng và bọn bồi bút tay sai như Phạm Quỳnh.<br /><br />Bên cạnh phong trào đó, trong xã hội và trên thế giới vẫn có những tiếng chê bai Phan Bội Châu, một Phan Bội Châu không còn như trước 1913 (dấu mốc rõ rệt nhất là từ khi Phan Bội Châu viết <em>“Pháp - Việt đề huề luận”</em>: 1918). Vì vậy, mặc dù sơ lược, nhưng chúng ta vẫn đọc thấy:<br /><br /><em>“Sau khi có lời tuyên ngôn này [của Phan Bội Châu – TXA. ct.], có rất nhiều dư luận khác nhau của các giới trong nước, nhiều bức thư ngỏ gửi cho Phan Bội Châu, và nhiều bài báo bình luận, kẻ khen, người chê (…)”</em> (21).<br /><br />Do đó, Phan Bội Châu phải viết thư gửi báo <em>“Trung Bắc tân văn”</em>:<br /><br /><em>“Nhờ quý báo làm ơn đăng vào báo cho mấy hàng này:<br /><br />Mấy hôm nay, tôi có tiếp được nhiều bức thơ gửi về hỏi bài Tuyên ngôn của tôi. Tôi xin trả lời rằng bài Tuyên ngôn ấy tôi viết bằng chữ Hán, còn Quốc ngữ và chữ Pháp là những bài người ta dịch ra.<br /><br />Nay kính thư,<br />Phan Bội Châu”</em> (22).<br /><br />Từ khi Varenne đặt bút kí nghị định ân xá Phan Bội Châu, ngày 23 tháng 12 năm 1925, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng, vào ngày 20-01-1926, Phan Bội Châu lại gửi thư nhờ báo chí làm rõ, về bản dịch của cuốn <em>“Pháp - Việt đề huề luận”</em>, như một cách minh định lại tính chất và mức độ “thỏa hiệp” với Pháp của ông:<br /><br /><em>“Kính cáo bạn đọc<br /><br />Kính gửi: báo Thực Nghiệp<br /><br />Xin quý báo làm ơn đăng vào báo cho mấy hàng này:<br /><br />Khi tôi ở ngoại quốc, có làm quyển “Pháp - Việt đề huề luận” bằng chữ Hán. Nay thấy có người dịch ra quốc ngữ, mà dịch thì có nhiều nơi không đúng ý tưởng của tôi. Lẽ ra, thời trước khi dịch để in, người dịch phải hỏi ý kiến tôi là phải. Song, nay chuyện đã qua, tôi cũng không dám phàn nàn gì nữa. Nhưng từ nay về sau, hễ có sách vở giấy má của tôi đã làm hay sẽ làm ra, ai có muốn dịch hay chép lại đi in hay để đăng báo thời xin hỏi tôi trước đã.<br /><br />Nay kính cáo<br />Phan Bội Châu”</em> (23).<br /><br />Chắc hẳn cũng trong khoảng thời gian ấy, vào năm 1926 (?), khi trả lời phỏng vấn của kí giả báo L’Annam, Phan Bội Châu đã có thể bình tĩnh, khí khái hơn:<br /><br /><em>“… Điều đó, tôi đã từng nói và từng viết trong sách “Pháp – Việt đề huề”. Sự hợp tác Pháp – Việt phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa hai dân tộc. Không có bình đẳng thì không có hợp tác. Nếu họ xem chúng ta là bạn bè, anh em thì chúng ta xem họ là anh cả, bằng họ xem chúng ta là trâu ngựa thì chúng ta xem họ là cừu thù, là quân xâm lược…”</em> (24).<br /><br />Hơn ba năm rưỡi sau, vào tháng 9-1929, Phan Bội Châu lại có một hành động như trong thời điểm xử án tại Hà Nội (một vị tú tài, Nguyễn Khách Doanh, đã đến xin thế mạng cho Phan Bội Châu), đó là việc Phan Bội Châu xin chết thay cho những chính trị “phạm”, tù nhân quốc sự trẻ tuổi thuộc Tân Việt cách mạng đảng. Ông đã viết một lá thư gửi Pierre Pasquier với nội dung như vậy (25).<br /><br /></div><blockquote><p align="justify"><strong>III. Sự thật lịch sử đằng sau những lời “biện minh” của Phan Bội Châu trước Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ (23-11-1925):</strong></p></blockquote><div align="justify"><br /><br />Sau khi được tha bổng, Pháp đưa Phan Bội Châu về an trí tại Huế. Trước khi vào Huế, trong những ngày đầu được phóng thích, tại Hà Nội, có tư liệu cho rằng Pháp gửi Phan Bội Châu vào tạm sống tại nhà một người đồng chí cũ của ông (*đ), từ khá lâu y đã về đầu thú và nhận chức sắc của Pháp. Đó là Nguyễn Bá Trác, người mà theo tương truyền, là tác giả của bài thơ <em>“Hồ trường”</em> bi tráng nổi tiếng. Thậm chí, hơn thế nữa, Phan Bội Châu còn đóng phim (*e), một loại phim có lẽ để tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề!<br /><br />Tuy vậy, bốn năm sau (1929), khi đã ổn định tinh thần, Phan Bội Châu lại viết hồi kí. Đó là công việc ông đã từng làm, và bỏ dở nửa chừng. Cuốn sách bị bỏ dở ấy có tên là <em>“Ngục trung thư”</em>. Nay, trong túp nhà ở Bến Ngự (Huế), Phan Bội Châu lại viết tiếp, đồng thời chỉnh sửa lại những trang đã viết. Đó là cuốn <em>“Tự phán”</em> (tự xét định về mình) hay <em>“Phan Bội Châu niên biểu”</em>.<br /><br />Trong <em>“Tự phán”</em>, Phan Bội Châu thành thật xác định những hành vi, chủ trương <em>“bạo động kịch liệt”</em> mà khi đứng trước vành móng ngựa tòa án thực dân Pháp mấy năm về trước, ông đã chối phắt.<br /><br /><em>“Lúc này tôi định cho người về trong làm cách bạo động kịch liệt…</em>” (lời Phan Bội Châu nói với Hoàng Hưng – TXA. chua thêm). Tiên sinh phản đối, bảo rằng nên theo giáo dục bắt tay vào, hễ quốc dân không giáo dục thì chẳng bao giờ bạo động mà có công hiệu.<br /><br />Tôi trả lời rằng: <em>“Quyền giáo dục nước tôi, hoàn toàn trong tay người Pháp… […] … Bạo động là môi giới để cải lương giáo dục đó”</em>.<br /><br /><em>Tôi nhân đó lấy câu “giáo dục dữ bạo động thời tịnh hành” […] Cuối cùng tiên sinh cũng cho là phải, mới đem 30 viên tạc đạn quân dụng làm quà cho tôi. Cái hi vọng của tôi từ Quảng Đông mang lên đó, tuy mới được chút đỉnh bằng lòng…”</em> (26).<br /><br />Một đoạn khác, <em>“Ông già Bến Ngự”</em> Phan Bội Châu viết:<br /><br /><em>“… tôi nghĩ rằng tuyên truyền chính sách hòa bình hoãn tiến, lâu nay chỉ là nói không và chuyện mộng, nên từ lúc Quang Phục hội thành lập, đêm nghĩ ngày làm, chỉ ước ao cho có một phen gọi rằng tìm được một cách chết là được. Tuy nhiên võ trang bạo động tất phải chờ kinh tế cho đủ dùng, tất cần trước phải có một ít vốn. Cờ tàn cuộc chết chỉ duy liều đánh một keo cuối cùng, dầu làm mà thua còn hơn ngồi mà chờ chết. Nghĩ thế, nên nhất thiết những việc làm bằng cách “cầu may”, tôi cũng làm liều, chẳng qua treo một cái gương thất bại cho người sau dòm mà thôi”</em> (27).<br /><br />Một đoạn khác, Phan Bội Châu viết rõ hơn:<br /><br /><em>“Kịch liệt bạo động cũng từ đây mà thực hiện.<br /><br />[…]<br />… Nếu trị được một lĩnh tụ nhà cường quyền chính trị thì có thể kích động nhân tâm, vừa tan óc giặc, chắc là ảnh hưởng to lắm. Ai ngờ đến lúc kết quả thì có đúng gì đâu! Sáu viên tạc đạn về Bắc Kỳ không tặng cho nhà gộc chính trị, mà chỉ tặng cho tuần phủ Thái Bình (*g) và Tây buôn ở hàng cơm (*h).<br /><br />Còn 4 viên tạc đạn sang Xiêm La thì chưa đến nơi mục đích, đã vất uổng trên sở cây.<br />Hai viên tạc đạn của Bùi Chính Lộ thì chỉ giết mấy con chó săn nhỏ, mà hi sinh đến tính mệnh rất quý.<br /><br />Đó thiệt ý tôi khi đầu có nghĩ thế đâu! Nhưng sau tôi tư nghĩ lại, rất lấy làm phàn nàn. Tự biết tội liệu sự, liệu nhân của tôi, so với Tiểu La tiên sinh thiệt cao thấp xa nhau nhiều quá”</em> (28).<br /><br />Mặc dù Phan Bội Châu viết về sự thật là ông có chủ trương và thúc đẩy, chỉ đạo hành động <em>“bạo động kịch liệt”</em> (“bạo lực cách mạng” mạnh mẽ) nhưng cũng chỉ với niềm hối hận (?!). Có lẽ một phần, đó là niềm hối hận thật sự của một người cách mạng thất bại, rơi vào trầm cảm; một phần khác, chắc chắn là do cuốn sách được viết ngay tại Huế, mặc dù trong ngôi nhà riêng của Phan Bội Châu. Ai bảo rằng trong ngôi nhà riêng, Phan Bội Châu không biết là quanh mình luôn luôn có những đôi mắt cú vọ của lũ mật thám Pháp, tay sai trông chừng, theo dõi, rình rập. Do đó, Phan Bội Châu đành phải viết với giọng điệu ăn năn như thế để qua mắt chúng hoặc được chúng bỏ qua.<br /><br />Mặt khác, nếu chúng ta trách rằng, sao Phan Bội Châu không thể hiện khí phách hào hùng, bất khuất ngay trước tòa án Pháp tại Hà Nội vào mùa đông năm 1925, thì chúng ta cũng có thể nhận thức với một nhãn quan khác, rằng Phan Bội Châu đã xác định cho mình phương thức đấu tranh, mà vào những năm 1936 – 1939, cũng như những năm trước và sau 3 năm “Mặt trận Bình dân Pháp” thắng thế ấy, người nghiên cứu về sau thường gọi là chiến đấu trên mặt trận văn học hợp pháp, công khai, với thủ pháp “xanh vỏ đỏ lòng”.<br /><br />Tất nhiên Phan Bội Châu không phải là đồng chí của V.I. Lénine, một người chủ trương cách mạng triệt để bằng bạo lực vũ trang. Phan Bội Châu thường tâm niệm câu nói của Machiavel, trong tác phẩm <em>“Quân vương”</em> nổi tiếng: <em>“Vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn”</em> (hay <em>“cứu cánh biện minh cho phương tiện”</em>). Trong một bài viết trong thời gian còn ở nước ngoài về lãnh tụ vô sản ở nước Nga xô-viết, Phan Bội Châu đã trích dẫn Lénine (*i):<br /><br /><em>“Lê-nin thường nói: “Cách mạng là một cuộc đấu kiếm thực sự và quyết liệt. Cho nên không kể gì đến vũ khí và phương thức chiến đấu, bất cứ cách nào, chỉ cốt lấy được đầu đối phương là được”; lại cũng nói: “Cách mạng là một chiếc xe máy chạy nhanh, chỉ một mực tiến lên vun vút. Cho nên làm cách mạng, không chọn một thủ đoạn nào, thủ đoạn nào cũng dùng được cả””</em> (29).<br /><br />Có thể căn cứ vào quan niệm ấy, ít ra đó chỉ là quan niệm machiavelist, vốn ảnh hưởng ở Phan Bội Châu khá đậm, cộng với tư thế tù nhân bị giam lỏng và tâm thế chung của xã hội nô lệ, trầm uất là nước ta thuở đó, để lí giải phần nào về ngôn ngữ “xanh vỏ đỏ lòng” của <em>“Ông già Bến Ngự”</em>.<br /><br />Vấn đề đánh giá mặt lợi, mặt hại cho phong trào yêu nước, cách mạng và chống Pháp, giành độc lập, tự do và xây dựng chế độ cộng hòa, dân chủ, từ tác dụng của tác phẩm Phan Bội Châu, lại là một vấn đề khác, không thể bàn một lúc nơi đây.<br /><br />Có một điều rất lạ, tuy không có một tư liệu gốc thành văn nào để lại, người đời sau sưu tầm được, ghi nhận rằng Phan Bội Châu vẫn giữ được khí phách, đã <em>“nhổ vào mặt Varenne”</em>, tên toàn quyền Đông Dương, người Pháp, thậm chí các văn bản thành văn hiện có lại phản ánh sự thật ngược lại là đằng khác, nhưng đến nay chúng ta vẫn đọc thấy:<br /><br /><em>“Chỉ có anh lính dõng An Nam […] Anh quả quyết – cái anh chàng ranh mãnh đó – rằng có thấy đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần.</em><br /><br /><em>Nếu quả thế thật, thì có thể là lúc ấy Bội Châu có mỉm cười, mỉm cười một cách kín đáo, vô hình và im lặng, như cánh ruồi lướt qua vậy.<br /><br />T.B.: Một nhân chứng thứ hai của cuộc hội kiến Varenne – Phan Bội Châu (xin chẳng dám nêu ra tên nhân chứng này) lại quả quyết rằng Bội Châu đã nhổ vào mặt Varenne; cái đó thì cũng có thể”</em> (30).<br /><br />Vâng, <em>“Bội Châu đã nhổ vào mặt Varenne; cái đó thì cũng có thể”</em>, chứ không chắc chắn mười mươi là sự thật. Và khóe cười kín đáo, chút nhếch môi cười ruồi kia, cũng có thể, có thể thôi, là cái thần rất thật, sự thật nội tâm của nhân vật trong bức tranh ngôn ngữ hư cấu.<br /><br /></div><blockquote><p align="justify"><strong>IV. “Chủ nghĩa Pháp – Việt đề huề” phải chăng đã được Phan Bội Châu ôm ấp đến lúc qua đời?</strong></p></blockquote><div align="justify"><br /><br />Đọc vội những trước tác tiếp theo, để dừng lại ở một văn bản cuối cùng và cuối đời Phan Bội Châu, di chúc có tên gọi là <em>“Mấy lời vĩnh quyết”</em>, chúng ta không thể không suy nghĩ, ngẫm ngợi:<br /><br /><em>“Phan Bội Châu, một tên dân Việt Nam, trước lúc gần chết mà chưa tắt hơi, kính có mấy lời thành thực từ biệt cùng anh em đồng bào.<br /><br />Trước kia không kể, kể từ năm 1906… khiến cho người nước kẻ ở người đi, kẻ còn người mất và bị lụy rất nhiều, toàn là tội ác về tay tôi gây nên. Mà may quá! Từ 1925 tôi mang cái sống thừa về nước đến giờ, anh em đồng bào đã không ai trách tội tôi mà lại quá thương yêu tôi, tôi thực là hổ thẹn với đồng bào ta và cảm ơn vô cùng. Trải mười lăm năm nay, nằm co trong túp lều ở Bến Ngự cùng chiếc đò trên sông Hương, đoạn đời sống thừa của tôi, không việc gì đáng nói và đồng bào đã rõ thừa. Bây giờ tôi đã đến lúc lâm biệt, xin có lời từ biệt.<br /><br />Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thiệt là một tên dân trốn nợ và vỗ nợ, đồng bào có thứ lượng cho tôi thì xác tôi tuy chết mà tinh thần tôi vẫn cảm ơn đồng bào luôn luôn.<br /><br /></em>“Người đến khi gần chết, lời nói hẳn lành”<em>. Nay tôi đã đến lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy vọng cuối cùng với đồng bào:<br /><br />Đồng bào Việt Nam ta có trên hai mươi triệu, bấy nhiêu đầu óc, bấy nhiêu tai mắt, bấy nhiêu chân tay, nếu không biết thân yêu nhau, đồng lòng hợp sức làm cái bổn phận quốc dân đối với Tổ quốc… Không thế, trên mặt địa cầu sau này sẽ không có hình bóng dân tộc Việt Nam nữa, thì Bội Châu này dầu có trốn nợ, vỗ nợ cũng may mà được chết trước anh em, tôi lấy làm một điều hạnh phúc.<br /><br />Mấy lời trên, tôi xin từ biệt mà cảm ơn đồng bào…<br /><br />Kính,<br />Phan Bội Châu quyết biệt”</em> (31).<br /><br />Đâu là lời giải đáp về sự chuyển biến hay sự kiên trì tư tưởng <em>“Pháp - Việt đề huề”</em> chủ nghĩa ở Phan Bội Châu? Với thao tác giản đơn, là hệ thống hóa toàn bộ tác phẩm của Phan Bội Châu, chúng ta có tìm ra lời giải đáp ấy?<br /><br /><em>(Kính mời xem tiếp bài 2)</em><br /><br />TRẦN XUÂN AN<br /><em>Tp.HCM., Việt Nam,<br />02 tháng 8 HB6 –<br />20 giờ 53, ngày 06 tháng 8 năm HB6 (2006).</em><br /><br />__________________<br /><br />(1) Chương Thâu sưu tầm & biên soạn, “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [bài “Lời cãi trước phiên tòa đề hình ngày 23-11-1925”, trích: Bùi Đình, “Vụ án Phan Bội Châu”, Nxb. Tiếng Việt, Hà Nội, 1950], Nxb. Thuận Hóa, 1990, sđd., tr. 29.<br /><br />(2) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 11 – 12.<br /><br />(3) Đối chiếu: Phan Bội Châu, “Tự phán”, [Phan Bội Châu tự tay viết “Tự phán” bằng chữ Hán, tự dịch ra tiếng Việt, vào năm 1929; bản in lần thứ nhất vào năm 1956 với lời tựa của Huỳnh Thúc Kháng, viết năm 1946], Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2000, tr. 229 – 232. Theo Phan Bội Châu trong “Tự phán”, sđd., ông viết “Pháp - Việt đề huề luận” vào năm 1918.<br /><br />(4) Phan Bội Châu viết “Chủ nghĩa mà tôi ôm ấp chín năm nay” vào năm 1921. Xem: “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 3, sđd., tr. 479 & 484.<br /><br />(5) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 10.<br /><br />(6) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [bài “Lời cãi trước phiên tòa đề hình ngày 23-11-1925”, trích: Bùi Đình, “Vụ án Phan Bội Châu”, Nxb. Tiếng Việt, Hà Nội, 1950], sđd., tr. 9.<br /><br />(7) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 10.<br /><br />(8) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 11.<br /><br />(9) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 14.<br /><br />(10) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 14.<br /><br />(*a) “Việt Nam vong quốc sử” vốn được các học giả Trung Quốc xếp vào “Ẩm Băng thất văn tập” của Lương Khải Siêu. Đó chính là cuốn sách do chính Lương Khải Siêu viết với mục đích chính trị nhất thời, theo phương châm bá đạo “vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn”.<br /><br />(11) Chương Thâu (biên soạn), “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, phần Trần Văn Quý sưu tầm, dịch thuật & biên soạn, Nxb. Văn hóa – Thông tin, TT. Văn hóa – Ngôn ngữ Đông – Tây, 2002, tr. 97.<br /><br />(12) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 14.<br /><br />(13) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 14. Đối chiếu: Phan Bội Châu, “Tự phán”, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2000, tr. 194 – 201.<br /><br />(*b) [như Cao Xuân Dục…/ xem trên, sđd., tr. 14; & Hồ Lệ, Nguyễn Thảng, Nguyễn Thuật, theo “Tự phán”, sđd., tr 37 – TXA. chua thêm].<br /><br />(14) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 20.<br /><br />(15) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 22 – 24.<br /><br />(*c) “Luận cương về vấn đề thuộc địa” của Lê-nin được công bố vào năm 1920.<br /><br />(*d) Theo sđd., “khi 2 trạng sư cãi xong, ông Saintonge và ông Bùi Bằng Đoàn đứng ra dịch tóm tắt lời cãi cho cụ Phan nghe”.<br /><br />(16) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 22 – 24.<br /><br />(17) “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, sđd., tr. 105. Ở “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 19, dòng cuối lại là: “ấy là chưa kể đến Đảng Cộng sản là đảng vẫn phản đối kịch liệt nhất”.<br /><br />(18) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 22.<br /><br />(19) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 14.<br /><br />(20) “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, [Carton SPCE/351 ở C.A.O.M.], sđd., tr. 97.<br /><br />(21) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [trích chú thích của bài “Lời tuyên ngôn thông báo cả toàn quốc” của Phan Bội Châu: nguyên văn lá thư Phan Bội Châu gửi báo Trung Bắc Tân Văn, tháng 1-1926], sđd, tr. 29.<br /><br />(22) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [trích chú thích, như (21) bên trên], sđd, tr. 29.<br /><br />(23) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [trích từ báo Thực Nghiệp số ra ngày 20-01-1926], sđd., tr. 30.<br /><br />(24) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, bài “Trả lời phỏng vấn của báo L’Annam về “Pháp - Việt đề huề” [khoảng 1926 (?)]”, tài liệu do Gs. Trần Văn Giàu cung cấp, sđd., tr. 31.<br /><br />(25) “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, bài “Thư Phan Bội Châu gửi toàn quyền Đông Dương” [Pierre Pasquier, 11-9-1929, carton SPCE/352, COAM, Aix-en-Provence], sđd., tr. 169 – 170). Trong lá thư này, ngoài nội dung chính như trên, lại có đoạn: “<em>Còn đối với vấn đề “họa cộng sản”, thời thiết nghĩ là hoàn toàn không đáng lo. Giả thiết rằng, một khi phong trào chuyển biến lớn, thế giới ngày càng đổi mới, nước Pháp cùng với các nước Âu Mỹ, rồi cả Nhật Bản, Trung Quốc ở Đông Á đều hóa thành như nước Nga Đỏ, thì Việt Nam không muốn là nước cộng sản cũng không thể được. Lại giả thiết rằng, nước Pháp và các nước láng giềng của Việt Nam không là cộng sản, mà chỉ đơn độc một Việt Nam, thì quyết không có khả năng thành cộng sản được. Còn bọn người hư trương cộng sản để gieo độc, lừa dối lòng người, thì đó là những lời nói ngông cuồng, tuyệt đối không có một chút hiểu biết nào, chính phủ cần gì phải bận tâm nhiều quá lắm vậy”.</em><br /><br />(*đ) Phan Thúc Duyện, Thư gửi bộ trưởng Bộ Thuộc địa P. Raynaud, 10-1931; dẫn theo “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, sđd., tr. 162.<br /><br />(*e) Theo Trần Viết Ngạc, “Một vài suy nghĩ thêm về Đông Du”, Tạp chí Xưa & Nay, số 4, tháng 9-2005, tr. 8 – 11; “Thử tìm hiểu qua báo chí đương thời: Phong trào đấu tranh đòi trả tự do cho Phan Bội Châu và những ngày đầu tiên của Phan Bội Châu ở Huế”.<br /><br />Xem: http://www.chuyenluan.net/200512/0512_08.htm<br />& http://www.chuyenluan.net/200511/0511_07.htm<br /><br />(26) Phan Bội Châu, “Tự Phán”, sđd., tr. 182 – 183.<br /><br />(27) Phan Bội Châu, “Tự phán”, sđd., tr. 182 – 183.<br /><br />(*g) (Do Phạm Văn Tráng thực hiện, 13-4-1913 – TXA. chua thêm [:ct.] theo chú thích của người biên tập sách).<br /><br />(*h) (Do Nguyễn Văn Túy thực hiện, 26-4-1913 – TXA. ct. theo chú thích).<br /><br />(28) Phan Bội Châu, “Tự phán”, sđd., tr. 195 – 196.<br /><br />(*i) Ch.Th. ghi chú: tồn nghi, chưa tra cứu; xem chú thích (29).<br /><br />(29) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 3, bài “Lược truyện Liệt Ninh (Lê Nin), vĩ nhân của nước Nga đỏ”, sđd., tr. 486.<br /><br />(30) “Hồ sơ vụ án Phan Bội Châu”, [Nguyễn Ái Quốc, báo Le Paria, số 36 – 37, 9 & 10-1925; “Truyện & kí”, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 1974, tr. 31 – 37], sđd., tr. 169 – 170.<br /><br />(31) “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, [toàn văn “Mấy lời vĩnh quyết”, theo báo “Tiếng Dân”, ngày 31-10-1940], sđd., tr. 392.<br /><br />TXA.</div>TRẦN XUÂN AN (An Tran Xuan, Phan Huyên Đình)http://www.blogger.com/profile/13195979010299666241noreply@blogger.com