8.4.07

TRAN XUAN AN -- PHAN BOI CHAU TRONG QUAN HE VOI THIEN CHUA GIAO

PHAN BỘI CHÂU
TRONG QUAN HỆ VỚI THIÊN CHÚA GIÁO

Trần Xuân An


(sơ thảo)


Trong những tháng sau Ngày Thống nhất đất nước, tên Phan Bội Châu trên con đường vốn là đường phố lớn thứ hai ở Huế, hầu như cùng một lúc với tấm biển khắc tên vua ngụy Đồng Khánh trên cổng một trường nữ trung học rất nổi tiếng, đã bị xoá đi, đục bỏ. Đồng thời, cũng như vậy, ở một số tên đường khác, nhưng khác với hai trường hợp trên, lại chỉ là sự nhầm lẫn, chẳng hạn như con đường nhà tôi, bỗng dưng cái tên của vị Bình Tây sát tả tướng quân Nguyễn Hiệu, vì thiếu một chữ “Duy”, nên cũng bị hạ biển. Có lẽ ai đó có thẩm quyền đổi tên đường không biết rằng, Nguyễn Duy Hiệu còn có tên gọi là Nguyễn Hiệu, như Trương Công Định còn được gọi là Trương Định, Nguyễn Phiên còn có thêm chữ “Thượng” lót giữa…

Đồng Khánh, tất nhiên còn đáng phải chịu tủi nhục hơn. Nhưng không khỏi xót xa cho Nguyễn [Duy] Hiệu, và có một chút ngậm ngùi cho Phan Bội Châu.

Pho tượng Phan Bội Châu ở Huế, do một nhóm trí thức tự nguyện, tự tay tô khắc, cũng chỉ im lìm một góc vườn nhà, không được dựng lên ở một vị trí thường thấy đối với một danh nhân thực sự, không tì vết hay tì vết không đáng kể. Đây không phải là sự nhầm lẫn như trường hợp Nguyễn Duy Hiệu, mà thể hiện một sự nhận định, đánh giá về ông.

Trong một bài viết về Phan Bội Châu hồi năm ngoái (1), tôi có dịp kể lại đôi nét về tình trạng nhận định Phan Bội Châu những năm tại Miền Bắc trước 1975. Cho dù qua đi thời “quá tả”, đấu tố cả Phan Bội Châu, trong nhận định chính thống, Phan Bội Châu vẫn không phải là một nhân vật lịch sử toàn bích. Nói thẳng ra, Phan Bội Châu mắc phải nhiều sai lầm về tư tưởng chính trị thật sự không hiểu nổi.

Trước phiên toà đề hình Bắc Kỳ, 1925, Phan Bội Châu không chứng tỏ ông là một anh hùng khí tiết. Điều đó thật đáng tiếc cho ông. Nhưng đáng trách hơn vẫn là một Phan Bội Châu trong mối quan hệ với Thiên Chúa giáo -- một lực lượng gắn bó, sát cánh với thực dân Pháp trong quá trình xâm lược và thống trị, nô dịch dân tộc ta (chưa kể giai đoạn câu kết với Mỹ để đạt đến đỉnh cao quyền lực thời Ngô Đình Diệm và giữ được phần lớn thế lực trong thời Nguyễn Văn Thiệu về sau).

Thật không hiểu nổi một Phan Bội Châu khi đọc những dòng điếu văn ông viết vào năm 1936, “Khóc đức cha Lý” (giám mục Allys), đăng trên báo “Tiếng Dân” ngày 25-5 năm ấy:

“… Nửa thế kỉ choảng vang chuông đạo Chúa, mở miệng người câm, xoi tai người điếc, những ước ao beo cọp hoá tường lân
Muôn giáo đồ tắm gội máu tim trời, suốt nam tới bắc, từ gần tới xa, mong mai mốt non sông thành lạc quốc”…
(2)

Không hiểu sao Phan Bội Châu lại viết như thế, trong khi ông nhận thức rất rõ bản chất tôn giáo này, trong quá trình Thiên Chúa giáo gắn bó với thực dân. Và ở một đoạn khác, tiếp theo, trong bài văn tế ấy, phải chăng Phan Bội Châu đã tự thú:

“… Tôi nhân vì nhiều bạn thảy con thương của Ngài, trước vài mươi năm từng nhiều phen ở Huế
[… kiểm duyệt một câu ? – TXA chua thêm…]
Chẳng trực tiếp, nhưng mà gián tiếp, gió xuân đòi trận, hơi hoà bình từng ngấm vào tim;
Ư
[ở - TXA. ct.] ngày nay nhắc tới ngày xưa, tiếng ngọc vài lời, mùi thân ái còn say tới não”… (2)

Như vậy, thêm một lần nữa, chúng ta biết, Phan Bội Châu đã thật sự có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa giáo từ những năm còn trẻ, chưa xuất dương sang Nhật.
Mối quan hệ đó, ở “Tự phán” (3) (tên khác: “Phan Bội Châu niên biểu” (3)), thể hiện qua ý thức chọn lựa Kỳ ngoại hầu Cường Để, hậu duệ hoàng tử Cảnh (người vốn đã được “rửa tội”, vào đạo Chúa, trong thời gian theo Pégneau de Béhaine sang Pháp), để tôn phù như một chiêu bài (“Sở Hoài vương, Lê Trang Tôn chẳng qua là một thủ đoạn khi anh hùng khởi sự mà thôi” (4)), lại còn được chính ông tự tay viết:

“Tôi từ biệt Tiểu La chạy hết các địa phương thầm kết giáo đồ từ Quảng Bình dĩ Bắc. Cụ Thông ở Mộ Vịnh, cụ Truyển ở Mỹ Dụ, cụ Thông ở Quỳnh Lưu, cụ Ngọc ở Ba Đồn, thảy sơ thông được tình tố hết; cái đám mây mù nghi ngờ nhau vì lương giáo, quét một trận mà sạch bong, cũng là một việc thích lắm. Việc này Ngô Quảng thật là một người phụng hành rất có công, bởi vì Ngô Quảng sau khi thất cước, đã từng đổi họ tên vào sổ dân giáo, nay anh cắp tôi đi, đường thuộc lối quen, đến đâu là như ý cả. Cho nên về sau tôi xuất dương, công ơn các người giáo dân phù nghĩa rất nhiều. Hiện bây giờ (lúc viết sách này), còn có cụ Lĩnh (đã chết ở Côn Lôn), hai cụ còn an trí ở Nam Kỳ, còn các thầy tuyên giáo hãy còn có người còn ở Nhật Bản, Xiêm La, Tàu, chớ không phải việc ngẫu nhiên vậy” (5).

Việc liên kết với linh mục, thầy giảng và giáo dân đạo Chúa ở còn diễn ra trong một thời gian ngắn sau:

“Tháng 10 đến Quảng Bình, ước với các người trong giáo hữu, như cụ Thông, cụ Truyền, đều nhóm nhau ở giáo đường nhỏ tại Ba Đồn. Những người nhóm ở đâu thảy là đảng sót của ông Hiền, ông Hậu, căm giận người Pháp đã lâu ngày” (6).

Một giáo dân khác còn được Phan Bội Châu ghi tên là Trần Văn Bỉnh (người Hà Tĩnh), có nghiên cứu sách Tây, chế được súng đạn:

“Ông là người hào kiệt trong giáo đồ…”.
“Khi đầu tôi mưu bạo động, trước kết giao với ông…”
(7)

Mối quan hệ đó, như trong một cuốn sách vừa xuất bản (8), tôi khẳng định, không phải là mối quan hệ giữa Phan Bội Châu cũng như của phong trào Đông du với giáo hội Thiên Chúa giáo tại Việt Nam, mà chỉ với một số linh mục, giáo dân đã đủ nghị lực thoát khỏi sự cương toả của giáo hội. Trong đó, Mai Lão Bạng là vị chuẩn linh mục tiêu biểu, bị giáo hội đe doạ rút phép thông công (9). Khi khẳng định như thế, tôi vẫn thể hiểu nổi vì sao ngay trong bản “Tự phán” cũng như trong bản “Phan Bội Châu niên biểu” đều ghi:

“Năm Mậu thân, tháng 2, (1908), tôi soạn sửa đi Tiêm La, trở về Hương Cảng, đụng gặp cụ Mai Lão Bạng từ trong nước ra. Đồng đi lần đó có học sinh thanh niên vài mươi người. Cụ Mai là đại biểu cho người trong Thiên Chúa giáo đồ. Giáo hội uỷ thác cụ ra để giới thiệu những người giáo đồ nhập Hội Duy Tân”.
[…]
“Tôi vì cớ tôn trọng giáo hội, mới nhóm toàn viện học sinh hoan nghênh cụ”… (10)

Đó là một lầm lẫn về bản chất của giáo hội Thiên Chúa giáo chăng, vì sự thật lịch sử không đúng như Phan Bội Châu viết về giáo hội, mà sự thực như tôi đã khẳng định, qua quá trình nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu khác nhau.

Nếu quả thật không có sự sửa chữa của người khác về sau, mà chính Phan Bội Châu đã viết như vậy, thì chỉ có thể lí giải: Phan Bội Châu không đủ dũng cảm do đã quá suy nhược thể chất (già nua, bệnh hoạn), nên đã biện minh cho giáo hội Thiên Chúa giáo với thủ thuật lấy bộ phận (một số linh mục, giáo dân chống Pháp) khái quát ra toàn thể (cả giáo hội đều chống Pháp)!

Không những chỉ ở các tác phẩm thuộc loại tự thuật, hồi ức vừa được trích dẫn, Phan Bội Châu còn thể hiện mối quan hệ ấy ra trong vài bài thơ khác:

Tặng báo “Vì Chúa”

Lòng ta vì chúa, chúa vì ta
Rước thánh thần về đuổi quỷ ma
Đường lối quang vinh lên tột bậc
Ai rằng Thiên quốc ở đâu xa?”
(11)

(1932)

Đầu năm Canh thìn,
Mừng báo Vì Chúa


Đông xưa sương tuyết gió mưa dồn
Ơn chúa đem xuân tặng chúng con
Thế thiệt càn khôn thương lũ bé
Bao giờ cây cỏ giả ơn non
Mười răn thánh dạy rằng in dạ
Ba kiếp trần qua vẫn giữ hồn
Ao ước tuyền Nam rành họ Chúa
Hoa tươi tươi mãi, nguyệt tròn tròn”
(12)

(báo “Vì Chúa”, số 152, ngày 18-2-1940)

Phan Bội Châu ao ước toàn (tuyền) cõi nước Nam đều rền (rành) rặt mang họ theo tên Chúa (tên thánh) khi rửa tội hay thêm sức! Một khi Việt Nam đã là một nước Thiên Chúa giáo toàn quốc, thì đất nước muôn đời tươi sáng, như hoa tươi mãi tươi thắm, như trăng tròn mãi tròn sáng, không thể mờ khuyết!

Đấy là thơ của nhà yêu nước Phan Bội Châu đó sao?! Thật không thể hiểu nổi!

Đó là chưa kể đến những bài thơ Phan Bội Châu ca ngợi những tên tay sai khét tiếng như Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm (13)!

Chúng ta có thể lí giải như thế nào về sự tồn tại những bài thơ như thế và những câu văn tế ở đoạn trên trong toàn bộ tác phẩm của Phan Bội Châu? Những bài ấy đều có xuất xứ rõ ràng: trích nguyên văn từ các tờ báo đã ấn hành từ những ngày Phan Bội Châu còn sống, nhất là đăng tải ở báo “Tiếng Dân” của chính nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng!

Phải chăng Phan Bội Châu đã đi từ chỗ chỉ liên kết với một số linh mục, thầy giảng, giáo dân trong giai đoạn chống Pháp trước 1925, ông trượt dài đến chỗ thoả hiệp với cả những giám mục thực dân Pháp và ca ngợi những kẻ này cùng cả giáo hội thuộc địa vốn đã bị nô dịch hoá đến mức mụ mẫm?

Phải chăng có một trò đánh lận nào đó trong toàn bộ tác phẩm Phan Bội Châu?

Trần Xuân An
khởi viết lúc 8 giờ 48 phút,
ngày 07-4 HB7 [2007] (20-2 Đinh hợi HB7);
viết tạm xong lúc 11 giờ 29 phút,
cùng ngày, tại TP.HCM.



______________

(1) Trần Xuân An, “Chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề của Phan Bội Châu”:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_txa-Pbchau.htm

Trần Xuân An, “Về tấm ảnh Phan Bội Châu & Cường Để chụp chung”:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III06/806_ykien-1-txa.htm

Hoặc LINKs theo địa chỉ mới của Giao Điểm bộ mới
( http://www.giaodiem.us ):

http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-1.htm

http://www.giaodiem.us/us-2006/8-06/806-pbc-txa-2.htm

Links trên web Tác phẩm Trần Xuân An:

http://tranxuanan-writer-1.blogspot.com/

(2) “Phan Bội Châu toàn tập” (PBC.TT.), Chương Thâu sưu tầm, biên soạn, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tập 6, tr. 341 – 342.

(3) Phan Bội Châu, “Tự phán”, Nxb. Văn hoá - Thông tin, tái bản, 2000; “Phan Bội Châu niên biểu” (PBC.NB.), trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 39 – 294.

(4) PBC.NB., sđd., tr. 65.

(5) PBC.NB., sđd., tr. 72 - 73.

(6) PBC.NB., sđd., tr. 79.

(7) PBC.NB., sđd., tr. 81.

(8) Trần Xuân An, “Nguyễn Văn Tường, một người trung nghĩa”, Nxb. Thanh Niên, 2006, tr. 292 – 296. Xem trên web Tác phẩm TXA.:

http://tranxuanan-nvtnntnghia.blogspot.com/
http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/nguyen_vtnntntxtkhduoc/nguyen_vtnntntxtkhduoc_nsach.htm

(9) Trần Tam Tỉnh (linh mục, viện sĩ), “Thập giá và lưỡi gươm”, nguyên tác tiếng Pháp, bản dịch của lm. Vương Đình Bích, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 189.

(10) PBC.NB., sđd., tr. 175.

(11) PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 213.

(12) PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 423.

(13) Phan Bội Châu, “Điếu Nguyễn Hữu Bài”, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 429; Thiết Mai Tôn Thất Cảnh, “Hơn một tiếng đồng hồ cùng cụ Phan Bội Châu”, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 4, tr. 314 – 315, và, Phan Bội Châu, “Mười bài vô đề”, bài thứ 5, bộ sđd., tập 5, tr. 254 – 255.


Lưu ý: Câu nói bằng tiếng Pháp của Hồ Chí Minh về Ngô Đình Diệm trong cuộc trả lời phỏng vấn do nhà báo Jean Lacouture thực hiện, “Il aime sa patrie à sa manière” (ông ta yêu nước theo cách của ông ta). Nhiều người đọc, như Tôn Thất Mạnh Hào chẳng hạn, rất chú tâm đến chữ “manière” (cách thức; thủ đoạn; kiểu cách bề ngoài). Thực sự yêu nước có nhiều cách, trong đó, cách thức chịu làm nô lệ, tay sai để bảo toàn lòng kính chúa cùng lòng yêu nước để vừa được lên thiên đàng vừa vinh thân phì gia cũng là một kiểu cách ra vẻ “yêu nước”!

Xem thêm: Thơ Phan Bội Châu viết về Thiên Chúa giáo:

-- Phan Bội Châu, “Chúc hạ “Vị Chúa báo” nhất chu niên” (1940), bản dịch của Chương Thâu, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 5, tr. 478 – 479.
-- Phan Bội Châu, “Viếng thân mẫu đồng chí Lê Bá Thuyên (nhà theo đạo Chúa)”, theo Lưu Trần Thiển, trong PBC.TT., bộ sđd., tập 6, tr. 428.

Xem thêm: Về mối quan hệ giữa Phan Bội Châu với Thiên Chúa giáo:

-- Nguyễn Ngọc Hà, “Linh mục Đậu Quang Lĩnh và những hoạt động kính chúa yêu nước trong Duy tân hội”, báo “Người công giáo Việt Nam”, số 9, 1-5-1995, in lại trong “Côn đảo, kí sự & tư liệu” (CĐ., KS. &TL.), Nxb. Trẻ, 1998, tr. 471 - 473.

-- Lê Tự, bài “Thầy Mai Lão Bạng ở Côn Đảo”, trong CĐ., KS. &TL., Nxb. Trẻ, 1998, tr. 474.

(Bài viết sẽ được tác giả sửa chữa, bổ sung thêm)

Đưa lên web, lúc 11 giờ 45 phút cùng ngày.
Sửa lỗi gõ phím vi tính: 14 giờ 30'

Chú thích: 16 giờ 25'
TXA.

Trau lại 2 câu: 7 giờ 54, 08-04 HB7 (2007)
TXA.